|
Akutagawa
Ryunosuke từ A đến R -
Con người,
thời đại, tác phẩm [2/2]
|
Nguyễn
Nam Trân |
5. Hoài nghi và trí thức
Donald Keene (15) cũng như nhiều
nhà b́nh luận thường nhấn
mạnh về ảnh hưởng bệnh
tật của bà mẹ ruột đối
với tâm tính ông. Một người
mẹ mặt xám xịt như thây ma, có
thể suốt ngày ngồi không nói không
rằng, lâu lâu lại lấy ống điếu
cốc đầu thằng bé con, chả bù
với bà mẹ nuôi dịu dàng mà ông
rất yêu quí. Rashomon được ông coi
như một trong những tác phẩm
“lạc quan” nhất của ḿnh mà đă
đậm màu sắc chán đời. Rashomon
là cái cổng thành bề thế (nhưng
sau lưng không có cái thành nào) giống như
cái bản mặt (men) của vũ sĩ
đạo oai nghiêm nhưng trong đó
chất chứa nhiều tàn ác và giả
dối đă làm cho Akutagawa hoài nghi về giá
trị của văn hóa nói riêng và con người
nói chung. Trong Rashomon, ngoài mươi ḍng
đầu ông mượn ở Konjaku,
cảnh thành phố Kyoto trung cổ
được ông phác họa theo Hojoki (Phương
Trượng Kư) của Kamo no Chomei (16).
Truyện thẩm tra hiện tại bằng
cách sử dụng tư liệu quá khứ
là một nét đặc biệt của văn
chương “truyện cũ viết
lại” (cố sự tân biên) (17)
của ông.
Sự hoài nghi, bi quan trong văn ông thường
được kèm theo cái tàn khốc trong
lối miêu tả như khi ông viết
về Kyoto của thế kỷ 12 khi bị
thiên tai tàn phá (trong Rashomon hay Chuto
chẳng hạn), hay Nagasaki thế kỷ 16
chung quanh những cảnh cực h́nh
thời cấm đạo.
Ông đă t́m thấy trong Vũ sĩ đạo,
khuôn vàng thước ngọc của người
Nhật Bản, có cái ǵ đó giả
tạo v́ đầy kịch tính. Người
mẹ xé nát chiếc mùi-soa (trong Chiếc
mùi-soa) để gh́m không cho sự
đau khổ lộ ra người ngoài
biết, rốt cục cũng chỉ làm
theo một phương pháp diễn xuất
có cái tên là... văn hóa v́ nó đi ngược
lại sự chân thành tự phát, vốn là
bản tính đích thực của con người
(18).
Ngoài cái bóng đen của bà mẹ trùm lên
suốt cuộc đời, Akutagawa c̣n
nhận ảnh hưởng lớn lao
của nhà văn Natsume Soseki, một người
ông rất ái mộ. Chúng ta biết Soseki là
một nhà trí thức sống trong dằn
vặt tinh thần, nhất là từ sau
những năm tháng du học London trở
về. Chính Soseki đă nhận chân
được tài năng và khuyến khích
ông cứ đeo đuổi nghề văn
cho dù lối viết của ḿnh không
được sự tán thưởng
của độc giả chăng nữa. Tháng
12 năm 1916, khi Soseki mất, ông giữ
ấn tượng sâu đậm về nhà
văn bậc thầy này. Người ta
thấy ảnh hưởng của Soseki
với chủ đề “sự ích kỷ
của người đời” qua Cánh
đồng khô (Karenosho, 1918), trong đó,
đám đệ tử của thi hào Basho
họp lại chung quanh giường bệnh
của thầy mà chỉ nghĩ những
lợi lộc của chính bản thân
họ một mai khi thầy không c̣n nữa.
Keene cũng nhắc cho ta là chủ đề
về ḷng ích kỷ từng được
khai triển bởi La Rochefoucauld, theo đó
“ngay cả lúc hành động một cách
cao thượng, con người cũng vâng
theo một động cơ: đó là ḷng
ích kỷ của họ”. Ḷng ích kỷ c̣n
thấy cả trong Sợi tơ nhện (Kumo
no ito, 1918), khi tên cướp Kandata dầu
đă được Đức Phật
cứu giúp thoát khỏi cảnh trầm luân
hỏa ngục, đă v́ ḷng ích kỷ mà
đánh mất dịp may cuối cùng
của chính ḿnh và biết bao người
khác.
Thái độ trí thức khô khan, lạnh lùng
khi trực diện với nhân vật và
sự t́nh trong truyện ngắn, ông đă
học hỏi được ở một
người đi trước khác: Mori Ogai.
Ít nhất đây cũng là ư kiến
của nhà phê b́nh Nakamura Shin-ichiro, người
cho rằng Ogai đă trao cho Akutagawa ch́a khóa
của sự thành công trong lănh vực
nghệ thuật khi truyền thụ một
cách gián tiếp lối viết tiểu
thuyết lịch sử kiểu Tây Phương,
trong đó, người viết cần
giữ một khoảng cách với nhân
vật ḿnh tạo ra. Từ đó, Akutagawa
chỉ sử dụng lịch sử như
một bàn đạp để giải thích
nó theo quan điểm của cá nhân ông. Anh
chàng Goi (ngũ vị), chức quan hạng bét
ở Kyoto thèm ăn cháo khoai phải lặn
lội xa xôi, đến khi có cháo trong tay th́
lại chán không muốn ăn nữa,
chẳng phải là một trường
hợp cá biệt mà tượng trưng cho
tính phổ quát (universality) con người muôn
thuở, vào bất cứ thời đại
nào.
6. Vay mượn hay sáng tạo?
Nhiều người phê b́nh Akutagawa quá
dụng công (overingenious), chẳng hạn như
khi viết Cháo khoai
(Imogayu, 1916), với
bố cục quá rắc rối và có
thể đă vay mượn Gogol trong tác
phẩm Cái áo khoác. Họ c̣n nêu lên
khuyết điểm của ông là thiếu
độc sáng và chỉ chắp nhặt. Ví
dụ, Sợi tơ nhện là kết
hợp hai nguồn: một chi tiết nêu lên
trong tuyển tập Lịch sử ma
quỷ và quan niệm về ma quỷ xưa
nay (History of the devil and the idea of devil from
earliest times to the present day) của Paul Carus và
một giai thoại trong Anh em nhà Karamazov
(19). Họ c̣n bảo Cái chết
của một con chiên (Hokyojin no shi, 1918)
vay mượn Jocelyn của Lamartine, Le
Crime de Sylvestre Bonnard của Anatole France, Vengeance
của Henri de Régnier, bản dịch Improvisatoren
của Hans Christian Andersen, Quo Vadis của
Henryk Sienkiewicz, Judith của Friederich
Hebbel, vv... Nếu nói thế th́ hơi oan cho
Akutagawa v́ để viết có mười
trang sách, lẽ nào ông phải vận
dụng chừng ấy tư liệu. Và các
vị kia có mượn của nhau hay không?
Akutagawa có biết ǵ về Quan Âm Thị
Kính hay không nữa chứ (v́ truyện nói
về nỗi oan của sư huynh Lorenzo,
thực ra là một người con gái
giả trai)! Nhưng điều không thể
chối căi là dựa vào kiến thức bác
lăm, ông có khuynh hướng sử dụng sách
vở nhiều hơn là trí tưởng tượng.
Có nhà phê b́nh c̣n tự hỏi phải chăng
Akutagawa đă tự sát chỉ v́ không t́m
ra nguồn cảm hứng nội tại và
cứ phải vay mượn từ bên ngoài!
Tuy nhiên, không có sự sáng tạo nào
bắt đầu từ con số không. Địa
ngục trước mắt (Jigokuhen, 1918)
tả bức b́nh phong vẽ cảnh
địa ngục trong đó một mỹ
nhân bị thiêu sống trong cổ xe ngự
có thể vay mượn của nhà văn lưu
vong Nga D.S. Merezhkovski (20) trong The
Forerunner, the Romance of Leonardo da Vinci theo
chủ trương của Shimada Kinji, nhưng
chủ đề của Akutagawa không
phải là “người đẹp bị
chết cháy” mà là “đâu là mục
đích tối thượng của người
làm nghệ thuật” qua h́nh ảnh của
lăo họa sư khùng Yoshihide say mê nghệ
thuật đến nỗi quên cả t́nh
phụ tử khi chăm chú vẽ cảnh
đứa con gái yêu bị ngọn lửa
của bạo quân thiêu chết.
Cái tài của Akutagawa là dùng những sự
kiện nho nhỏ để nói lên
được tính phổ quát ở bản
chất con người (dưới cái nh́n
bi quan của ông). Ông không tôn trọng
sự chính xác của lịch sử, v́
sự thực mà ông trưng bày không có tính
lịch sử mà chỉ có chất thơ. Các
chủ đề như “đâu là sự
thật? có mấy sự thật? chết
rồi có c̣n giữ thể diện hay không?”
trong Bốn
bề bờ bụi, hay “thiện và
ác khác nhau ở chỗ nào?” trong La Sinh Môn,
“dục vọng và thỏa măn dục
vọng” trong Cháo khoai, “đời
đáng sống hay không đáng sống”
trong Xă hội thủy quái Kappa đều
là những chủ đề lớn nói
về thân phận c̣n người. Phong cách
của Akutagawa nằm ở chỗ đó!
Cho dù ông có sáng tạo bằng mô phỏng
và lượm lặt chi tiết lặt
vặt để tạo dựng một
chủ đề, nhưng ông quả có thiên
tài góp gió làm băo vậy.
7. Những dao động cuối đời
và cái chết
Trong những năm tháng cuối cùng, ng̣i
bút của Akutagawa không c̣n đem đến
cho ông những thành công buổi đầu.
Tuy loại tiểu thuyết tự truyện
nhuốm màu sắc bệnh tâm thần
(neurotic I novel) của ông dành được
cho ông một chỗ đứng riêng trên văn
đàn, nhưng đă thấy xuất
hiện Shiga Naoga, một cây bút viết
truyện ngắn lỗi lạc khác và
những nhà văn vô sản của tạp
chí Tanemaku Hito (Người gieo
giống). Ông tỏ ra ḥa hoăn với cả
Shiga lẫn nhóm Người gieo giống. Tuy
hăy c̣n chủ trương nghệ thuật
trên hết và giữ bản chất hoài
nghi của người theo chủ nghĩa hư
vô (nihilism) nhưng ông cũng đă có vài tác
phẩm phê b́nh chủ nghĩa tư bản
và đạo đức truyền thống
(như trong Kappa) cũng như quan tâm
đến cuộc sống khổ cực
của nông dân (như trong Cục đất)
hay mô tả thế giới đen tối
trong một gia đ́nh trưởng giả mà
chủ nhân đang nằm đợi
chết ( Gengaku sanbo).
Tuy nhiên lúc đó Akutagawa đă mệt
mỏi quá rồi. Trong Kappa, ông đă
mơ tưởng được sống
trong một thế giới “phi nhân gian”
(nonhuman world). H́nh ảnh siêu thực của
xứ sở loài thủy quái Kappa tương
tự như thế giới loài chim cánh
cụt (penguin) trong tác phẩm của Anatole
France, một tác giả Akutagawa yêu thích. Nó
cũng có thể là nước người
tí hon mà Gulliver đă đến thăm hay nơi
cô bé Alice lạc đến. Tiếng là
“quái” nhưng loài Kappa c̣n đầy
đủ nhân tính hơn cả loài người:
Dần dần tôi bắt đầu quen
với ngôn ngữ của loài Kappa và nhân
đó, hiểu được phong tục
tập quán của chúng. Trong đó có
tập quán lạ là những ǵ con người
chúng ta cho là trang nghiêm th́ chúng lấy làm
kỳ cục. Ngược lại những ǵ
ta cho là kỳ cục th́ chúng lấy làm
trang nghiêm. Ví dụ ta bảo “chính nghĩa”
hoặc “nhân đạo” là những điều
trang trọng th́ khi nghe tới đó,
bọn Kappa ôm bụng mà cười. Có nghĩa
là quan niệm về sự khôi hài giữa
ta và chúng hoàn toàn khác nhau. Khi tôi có dịp
nói chuyện về hạn chế sinh đẻ
với một bác sĩ nhi khoa Kappa tên là
Chak th́ ông ta mở mồm há hốc rồi
cười sặc sụa thiều điều
rơi cả kính gắn trên sống mũi.
Dĩ nhiên lúc ấy tôi cáu sườn nên
mới cật vấn ông ta xem hạn
chế sinh đẻ th́ kỳ cục ở
chỗ nào. Lúc đó tôi chưa giỏi
tiếng Kappa cho lắm, chỉ hiểu câu
trả lời của Chak đại loại
như thế này:
- Kỳ khôi ở chỗ chỉ giúp cha
mẹ khoẻ thân mà thôi. Thế là quá
quắt chứ sao!
Ngược lại, dưới cái nh́n
của loài người chúng ta th́ thật
không có ǵ kỳ quái hơn là cảnh tượng
sinh nở ở xứ Kappa. Sau đó it lâu,
tôi có dịp đi đến căn nhà
nhỏ của Bag để xem cảnh
vợ ông ấy lâm bồn. Lúc Kappa sinh
nở th́ cũng giống như chúng ḿnh
vậy, nghĩa là có bác sĩ, cô đỡ
đến giúp. Tuy nhiên lúc sanh th́ ông
bố lại châu mồm vào chỗ kín
của bà vợ như người đang nói
điện thoại, to giọng: “Thế
con có muốn ra đời hay không? Nghĩ
cho kỹ rồi trả lời nhé!”. Bag
vừa khom gối, hỏi đi hỏi
lại nhiều lần như thế. Sau
đó th́ ông ta lấy thuốc nước
sát trùng để trên bàn mà súc miệng.
Một chốc, coi bộ đứa bé trong
bụng vợ của Bag có vẻ do dự
rồi thấy nó lí nhí trả lời:
-Con không muốn ra đời làm ǵ.
Nhất là để mang chứng bệnh tâm
thần di truyền từ bố th́ khổ
lắm! Hơn nữa, giống Kappa sinh ra không
biết để làm chi?
Bag nghe câu trả lời, bẽn lẽn
đưa tay lên găi đầu. Tức
thời bà đỡ đứng chực
sẵn bên cạnh đă cầm ngay một
ống thuỷ tinh đút vào chỗ kín
của bà vợ, như thể chích một
thứ thuốc ǵ đấy. Chỉ
thấy bà ta thở phào một cái như trút
đi gánh nặng, đồng thời, cái
bụng x́u xuống tựa quả bong bóng
vừa thoát hết hơi.
(trích Kappa, đoạn 4)
Nên nhớ rằng Akutagawa viết Kappa
năm 1927 (và có thể trước đó),
lúc đó Jean-Paul Sartre (1905-1980), ông tổ
của thuyết hiện sinh thời hậu
chiến, người đặt câu hỏi
thời danh “Sinh ra tôi sao không hỏi ư
kiến tôi?” mới có 22 tuổi.
Akutagawa có phải muốn từ giă cuộc
đời này để đi t́m một
“xứ lạ” như thế giới
của loài Kappa?
Cái chết bằng tự sát
của ông có nhiều lư do, từ cảnh
ngộ gia đ́nh đến bệnh
hoạn, chứ không riêng mỗi lư do tinh
thần. Có người c̣n cho những lư do
tinh thần ông nêu ra chỉ là để
“làm dáng, điểm trang cho cái chết”.
Thế nhưng, văn chương ông
tự buổi đầu đă nặng tính
hoài nghi yếm thế. Sau khi Akutagawa mất,
cả hai cánh tả và hữu đều gán
cho ông nhăn hiệu như là người
của họ, nhưng bản thân ông không
bao giờ đặt vấn đề chính
trị. Có lẽ trong ông tiềm ẩn
nỗi khổ tâm của một nhà nghệ
sĩ “nhân bản”, đầy ḷng yêu
cuộc sống (yêu quá hóa hờn), phải
đứng trước một lựa
chọn có tính bức bách mà không t́m
được lời giải thoả đáng:
nghệ thuật vị nghệ thuật hay
nghệ thuật vị nhân sinh?
© eVăn 2004
________________
Chú thích của tác giả:
(15)
Trong Dawn to the West.
(16) Kamo no Chomei (Áp, Trường Minh,
1155?-1216), người thời Kamakura, cất
am trong núi. Hojoki là một tác phẩm
cổ điển của ḍng văn học
ẩn sĩ.
(17) Trong ḍng văn học nầy c̣n có
Lỗ Tấn (Lu Xun, 1881-1936), một tên
tuổi vĩ đại khác.
(18) Giáo sư Hasegawa trong Chiếc mùi-soa thất
vọng với Vũ Sĩ Đạo
rốt cuộc chỉ c̣n biết đặt
ḷng tin vào “cái lồng đèn Gifu bằng
giấy phết có vẻ h́nh mấy
cọng cỏ thu”, tượng trưng
đơn sơ của tâm hồn Nhật
Bản đích thực, treo trước hiên
nhà.
(19) Xin xem thêm một biên khảo công phu
của Đinh Văn Phước về
nguồn gốc Sợi Tơ Nhện.
(20) Người mà ông nhắc đến
trong tùy bút Nước ḍng sông cái
(Okawa no mizu, 1912).
(21) Mặt nạ có mồm chu chu như ngườI
đang thổi lửa. Mang lúc nhảy múa làm
tṛ.
(22) Con nộm múa rối mà thầy tuồng
Noroma Matsukampei dùng để diễn lần
đầu năm 1670 ở Edo (Tokyo bây
giờ).(23) Trong kinh Phật, hoa nầy
mọc ở vườn Kỳ Viên bên Thiên
Trúc.
*
Phụ Lục: Phát
triển của tiểu thuyết hiện
đại sau thời Akutagawa
Niên
đại |
Khuynh
hướng vị nghệ thuật |
Khuynh
hướng vị nhân sinh |
Taishô
Taishô
15 |
Phái
nghệ thuật mới (Shinkô
Geijutsu-ha) Ibuse Masuji, Kajii Motojiro. |
Văn học vô sản (Puroretaria
Bungaku)
Tokunaga
Sunao, |
Shôwa
Shôwa
10
Shôwa 20 |
Phái tâm lư mới (Shin
Shinri-ha)
Hori
Tatsuo, Ito Sei
Phái
cảm giác mới
(Shin
Kankaku-ha)
Yokomitsu
Riichi, Kawabata Yasunari, Kataoka Teppei |
Hayama Yoshiki, Kobayashi Takiji
Văn học chuyển hướng (Tenko
Bungaku) Nakano Shigeharu, Shimaki Kensaku
Văn
học thời chiến
|
Đời
văn chương của Akutagawa Ryunosuke
-1892
(1 tuổi) sinh ở Irifune (Tokyo), trưởng
nam nhà Niihara. Mẹ phát cuồng, về làm
con nuôi cho cậu là Akutagawa Michiaki, một văn
nhân.
-1898
(7 tuổi) học tiểu học. Học
giỏi. Đă biết làm thơ Haiku.
-1902
(14 tuổi) mẹ ruột chết. Cùng
bạn đồng lứa lập tạp chí
văn chương. Thích đọc các tác
giả Nhật Bản thời Edo (Chikamatsu,
Bakin, Ikku, Sanba) và hiện đại (Koyo,
Rohan, Ichiyo, Ogai) và truyện Trung Quốc (Tây
Du, Thủy Hử).
-1910
(19 tuổi) tốt nghiệp trung học
với bằng khen. Nhập học văn
khoa trường Ikko (Dự Bị Đại
Học) miễn thi. Quen biết với Kume
Masao, Kikuchi Kan, Yamamoto Yuzo... những bạn
đồng song và chung chí hướng.
-1911
(20 tuổi) nội trú ở cư xá Hongo trường
Đại Học Đông Kinh. Nổi
tiếng thông minh. Làm quen với tác phẩm
của Auguste Strindberg, Anatole France, Henri Louis
Bergson, Rudolf Eucken.
-1913
(22 tuổi) tốt nghiệp Ikko hạng 2 trên
27 người. Vào khoa Anh, nuôi mộng sáng tác.
-1914
(23 tuổi) cùng với các bạn Kume,
Kikuchi, Yamamoto... tái bản (lần thứ 3)
tạp chí Shinshicho. Ra mắt Tuổi già
(Ronen) và vở kịch Tuổi xuân và cái
chết (Seinen to shi). Chính ra đă
viết tùy bút Nước ḍng sông cái
(Okawa no mizu) 2 năm về trước (1912).
-1915 (24 tuổi) viết Mặt nạ
hyottoko (21) (Hyottoko), cho
đăng La Sinh Môn (Rashomon). Gặp
gỡ Natsume Soseki, từ đó hay lui tới
học hỏi.
-1916
(25 tuổi) tái bản (lần thứ 4)
tạp chí Shinshicho. Cho đăng Cái mũi
(Hana). Viết luận văn tốt
nghiệp về William Morris, đỗ
hạng 2 trên 20 người. Trong năm,
lần lượt đăng tải đó
đây Cháo khoai
(Imogayu), Chiếc mùi-soa
(Hankechi), Địa ngục cô độc
(Kodoku Jigoku), Cha (Chichi), Chấy
rận (Shirami), Hy vọng (Kibo), Sâu
rượu (Sake no mushi), Con nộm Noroma (22)
(Noromatsu Ningyo), Khỉ (Saru), Căng
buồm (Shuppo), Thuốc lá và con
quỷ (Tabako to Akuma), Cái ống điếu
(Kiseru).
-1917
(26 tuổi) cho ra đời tập truyện
ngắn đầu tiên La Sinh Môn
(Rashomon), và tập thứ hai mang tên Thuốc
lá và con quỷ (Tabako to Akuma). Cùng năm,
cho in Thư nhắn tin của Ogata Ryosai
(Ogata Ryosai oboegaki), Số mệnh (Un), Hỏi
đạo tổ sư (Doso Mondo), Trung
nghĩa (Chugi), Ghi chép về một
đám tang (Sogiki), Bọn đạo
tặc (Chuto), Người Do Thái lang
thang (Samayoeru Yudajin), Một ngày trong
đời O-ishi Kuranosuke (Aruhi no O-ishi
Kuranosuke), Hứng sáng tác (Gesaku Sammai).
-1918
(27 tuổi), đầu năm, cưới cô
Tsukamoto Fumiko. Định cư ở Kamakura,
bỉnh bút cho nhật báo Osaka Mainichi. Theo
học haiku với Takahama Kyoshi (1874-1959),
truyền nhân của Masaoka Shiki (1867-1902). Cùng
năm ấy, đăng Tướng Tây Hương
Long Thịnh (Saigo Takamori), Truyện
đầu rơi (Kubi ga ochiru hanashi), Truyện
về gă Yonosuke (Yonosuke no hanashi), Ḷng
đă trót yêu (Kesa to Morito), B́nh phong
họa cảnh địa ngục (Jigokuhen),
Sợi tơ nhện (Kumo no ito), Án
mạng thời mới mở mang (Kaika no
satsushin), Cái chết của một con chiên
(Hokyonin no shi), Cánh đồng khô (Karenosho),
Tà Tông Môn (Jashumon).
-1919
(28 tuổi) cho ra mắt tập truyện
ngắn thứ ba, Thầy tuồng múa
rối (Kairai-shi). Từ chức dạy
Anh Văn ở trường Hải Quân, chính
thức gia nhập báo Osaka Mainichi nhưng không
cần đến sở hàng ngày mà chỉ
đăng độc quyền mỗi năm
một số truyện là đủ. Bố
đẻ, Niihara Toshizo, chết, ông bỏ
Kamakura dọn trở về nhà cũ vùng
Tabata ở Tokyo, viết Hang quỷ đói
(Gakikutsu). Năm ấy, tháp tùng Kikuchi Kan
đi Nagasaki chơi nên chuyển
qua những đề tài liên quan đến
giai đoạn người ngoại quốc
vừa tới Nhật. Viết Thầy
Mori (Mori sensei), Tôi hồi đó (Ano
koro no jibun no koto), Truyện thánh Christopher (Kirishitohoro
shoninden), Những chuyện tôi đă
gặp: mấy trái quít, băi lầy (Watakushi
ga deatta koto: mikan, numachi), Trên đường
(Rojo), Mụ phù thủy (Yoba). Thêm
tập phê b́nh Nghệ thuật và
những vấn đề khác (Geijutsu to
sonota).
-1920
(29 tuổi) Ra tập truyện thứ tư Đèn
kéo quân (Kagedoro). Sinh trưởng nam
Hiroshi (phiên âm Kan của tên bạn Kikuchi Kan
đặt cho con). Viết Cậu bé
thợ săn Jirokichi (Rokozo Jirokichi), Tiệc
khiêu vũ (Butokai), Chữ tín vủa Vĩ
Sinh (Bisei no shin), Mùa thu (Aki), Thánh
mẫu áo đen (Kurogoromo Seibo), Chúa Kitô
ở Nam Kinh (Nankin no Kito), Cậu bé
Đỗ Tử Xuân (Toshishun), Bóng (Kage),
Nàng O-Ritsu cùng lũ con (O-Ritsu to kodomo
to).
-1921
(30 tuổi) Ra tập truyện thứ tư Hoa
nở về đêm (Yarai no hana). Cùng năm,
theo đoàn đặc phái viên báo Osaka
Mainichi viếng thăm Trung Quốc, đi
từ Thượng Hải, xuống Giang Nam,
ngược ḍng Trường Giang lên Lô Sơn,
qua Vũ Hán, thăm hồ Động Đ́nh,
Trường Sa rồi lên Bắc Kinh.Tháng 7,
lên đường về nước qua
ngả Triều Tiên. Cho ra mắt Bức
họa núi thu (Shuzanzu), Cuộn tranh
vẽ kiếp lai sinh (Ojo emaki), Thượng
Hải du kư (Jokai yuki), Mẹ (Haha), Đa
t́nh (Koshoku).
-1922
(31 tuổi) lại đi thăm Nagasaki. Tháng
5, cho ra tập tùy bút Điểm tâm (Tenshin),
tháng 8, tuyển tập Hoa thiêng Shara (23) (Shara
no hana), tháng 11, tập tiểu thuyết trung
biên Tà Tông Môn (Jashumon), coi như là
phần tiếp theo của Jigokuhen. Sinh
Takashi, con trai thứ. Lúc bấy giờ,
sức khoẻ của ông bắt đầu
kém, có triệu chứng suy nhược
thần kinh, thêm suy tim, rối loạn tiêu hóa
v́ lạm dụng thuốc ngủ. Khoảng
thời gian này, viết Sư Tuấn Khoan
(Shunkan), Bốn bề bờ bụi (Yabu
no naka), Tướng quân (Shogun), Chiếc
xe gọng (Torokko), Một truyện đền
ơn (Ho-onki), Bà chúa Sáu (Roku no miya
no himegimi), Chợ cá (Uogashi), Trinh
tiết (O-Tomi no Teiso), Hoa loa kèn (Yuri).
-1923
(32 tuổi) cho đăng liên tiếp Lời
phát biểu của một người hèn kém
(Shuju no kotoba) trên Bungei Shunju. Tháng 5, cho ra
mắt tập truyện thứ 6 nhan đề
Áo Tết (Shunfuku). Quen biết với
vợ chồng Okamoto Kanoko và Hori Tatsuo,
cả hai sau đều là nhà văn có
tiếng. Đi thăm Kyoto và viết B à
à à à (Obabababa), rồi Ba vật báu (Mitsu
no Takara), Mấy con nộm (Hina), Trích
từ thư củaYasukichi (Yakukichi no
tegami kara), Bệnh của con (Kodomo no
byoki), Cúi chào (Ojigi).
-1924
(33 tuổi) Ra mắt tập truyện
thứ bảy Gió Đông Nam (Kojakufu).
Biên tập sách nói về văn chương
Anh hiện đại (The modern series of
English Literature) mất 8 tháng ṛng. Ra
tập tùy bút thứ hai Tạp thảo (Momokusa).
Người chú chết, cậu em vợ
thổ huyết, gây xúc động mạnh.
Sức khoẻ suy yếu dần. Trong năm
viết Lời nhắn của cô dệt
cửi (Itome oboegaki), Cục đất (Ikkai
no tsuchi), Ḥn đảo kỳ lạ (Fushigina
shima), Cậu bé (Shonen), Cái lạnh (Samusa),
Một truyện t́nh (Aru ren-ai shosetsu).
-1925
(34 tuổi) Ra mắt Tuyển tập Akutagawa
Ryunosuke. Con trai thứ ba Yasushi ra đời.
Phát hành Chuyến đi Trung Quốc (Shina
Yuki) và sáng tác Thời trẻ của
Shinsuke chùa Daidoji (Daidoji Shinsuke no hansei), Chân
ngựa (Uma no kyaku), Tin tức từ
trạm suối nước nóng (Onsendayori),
Bên bờ biển (Umi no hotori). Có làm vài
bài thơ nhưng vào thời điểm này,
không những sức khoẻ suy sụp mà
hứng sáng tác cũng có vẻ cạn.
-1926
(35 tuổi) Lại rối loạn tiêu hóa,
suy nhược thần kinh phải lên
suối nước nóng nghỉ ngơi. Cho
phát hành tập tùy bút Ngựa, hoa mơ và
chim cuốc (Uma, ume, hototogisu). Đăng Cây
quạt Hồ Nam (Konan no uchiwa), Một
ngày cuối năm (Nenmatsu no ichinichi), Người
đất Việt (Etsubito) (gồm 25 bài
thơ đối đáp), Nhớ
chuyện xưa (Tsui-oku), Đêm xuân (Haru
no yo), Điểm danh người đă
khuất (Tenkibo), Điềm gở (Kyo,
di cảo).
-1927
(36 tuổi) về lại Tabata. Người
anh vợ tên Nishikawa Yutaka tự sát sau khi
đốt nhà, để lại một món
nợ to, ông phải chạy đông
chạy tây lo thanh toán. Bút chiến với
Tanizaki Jun-ichiro chung quanh quan điểm
nghệ thuật. Tập truyện thứ 8
nhan đề Cây quạt Hồ Nam (Konan
no Uchiwa) là tập truyện cuối cùng.
Đêm 24 tháng bảy uống hai liều
thuốc ngủ rất nặng, tự sát. Bên
gối có đặt quyển Thánh Kinh. Để
lại nhiều di thư cho thân nhân và bè
bạn, trong đó có Thư gửi một
người bạn cũ (Aru kyuyu e okuru
tegami) viết cho Kume Masao. Ngày 27, đàn anh
như Izumi Kyoka, bạn đồng lứa như
Kikuchi Kan, lớp sau như Kojima Seijiro chung
sức tổ chức tang lễ. Tác phẩm
phát hành trước khi chết có Sơn
trang Genkaku (Genkaku sobo), Ảo ảnh
cuộc đời (Shinkiro), Hắn (Kare),
Lại hắn (Kare daini), Biệt
thự an nhàn (Yuyu-so), Xă hội
thủy quái Kappa (Kappa), Dụ dỗ (Yuwaku),
Nỗi u sầu của Taneko (Taneko no
yu-utsu), Guồng máy - Chương đầu
(Haguruma dai issho), Ba cánh cửa sổ (Mitsu
no mado). Các di cảo được in trong năm
gồm Hỏi và đáp trong bóng tối (Anchyu
mondo), tiếp đó là Lời phát
biểu của một người hèn kém (Shuju
no kotoba), Guồng máy (Haguruma), Đời
một chú ngốc (Aru aho no issho), Người
phương Tây (Seiho no hito) và Tục
biên - Người phương Tây (Shoku
Seiho no hito).
Tháng
11, Toàn tập Akutagawa Ryunosuke gồm 8
tập ra đời. Ngoài các tập
luận thuyết văn học, tùy bút cũng
như các thi tập (mà ông viết với bút
hiệu thơ Trừng Giang Đường)
cũng được in lại.
*
Tư
liệu tham khảo:
1)
Akiyama, Ken & Mikoshi, Yukio biên tập, Shin
Nihon Bungakushi (Tân Nhật Bản Văn
Học Sử), Bun-eidô, Tokyo, 2000.
2)
Donald Keene, Dawn to the West, Japanese Literature of
the Modern Era, Volume 3 (Fiction), Clumbia University
Press, NewYork, USA.
3)
Ôka Shôhei, Kaisetsu (Tŕnh bày về tác
giả Akutagawa), Mi Miyoshi Yukio, Nenpyô
(Mục lục các tác phẩm), Nihon no Bungaku
29 Akukagawa Ryuunosuke, 1964. Chuô Kôron tái bản
lần thứ 44 năm 1979.
4)
Tomita, Hitoshi, Điểm tiếp xúc
của văn học Đông-Tây (Tôzai
bungaku no setten), Đại học Waseda, Tôkyo,
1991.
5)
Uno Kôji, Akutagawa Ryunosuke, tập1 và 2,
Chuô Bunko, Tôkyo, 1975.
|
Bị chú : Bài
đă đăng trên E-Văn www.evan.com.vn.
Chia sẻ trên ERCT với sự đồng ư
của anh Nguyễn Nam Trân
®
"Khi phát hành lại thông tin từ trang này cần phải có sự đồng ư
của tác giả
và ghi rơ nguồn lấy từ www.erct.com"
|
|