Nguyên tác của : Sakaiya Taichi Người dịch : Đặng Lương Mô Chương IV : Oda Nobunaga -
Người anh hùng bị phủ nhận của
lịch sử Nhật Bản
Thời
chiến quốc, thời kỳ đổi mới
kỹ thuật lớn
Oda Nobunaga là một trong những nhân vật
nổi tiếng nhất của lịch sử
Nhật Bản. Thời nay, giới trẻ vẫn
c̣n coi nhân vật này là "bảnh," là
"tuyệt" ở chỗ đó là một người
cải cách có lối sống "phá thiên hoang[1]"
trong thời chiến quốc[2]
Nhật Bản.
Cũng như những nhân vật lịch
sử nổi tiếng khác, h́nh ảnh Oda Nobunaga
như được lưu truyền trong
truyền thuyết, trong kịch bản, nếu có
phần khác với sự thực là điều
khó tránh khỏi được. Tuy nhiên, v́
cuộc đời và hành động của
Nobunaga đă khiến ông dễ trở thành vai chính
của truyện kể cũng như kịch
bản, nên cái "thực ảnh" và cái
"hư ảnh" của ông khác nhau tương
đối ít chăng. Chỉ có một điểm
khác xa, là người ta thường nói Nobunaga có
tính nóng nẩy cục cằn, song thật ra ông là
người chịu nhịn, nhẫn nại.
Quả thật Nobunaga là con người có t́nh
cảm thất thường, lời nói và hành
động cũng nghiêm khắc. Song nếu nh́n hành
động suốt cuộc đời ông, ta
mới thấy ông là người bền chí,
đa mưu túc kế, hiểu biết tinh tường
và nói chuyện lư thú. Những điều này
rất quan trọng cho việc nhận xét nhân
vật Oda Nobunaga.
Oda Nobunaga sinh năm 1534, đúng là lúc
thời "chiến quốc" vừa chuyển
từ giai đoạn tranh giải địa phương
(nửa đầu) sang giai đoạn tranh
giải toàn quốc (nửa cuối). Nên biết
thêm rằng, chín năm sau th́ súng ṇng thép
được truyền tới Nhật Bản và
15 năm sau th́ Francisco Xavier[3]
đặt chân lên đất Nhật Bản.
Nobunaga sinh ra đúng thời nhà mạc
phủ Ashikaga đă suy đồi, toàn nước
Nhật lâm vào thời loạn "hạ khắc
thượng." Từ giữa thế kỷ
thứ XV, kể từ sau loạn Onin, toàn
quốc Nhật Bản đă lâm vào cảnh
loạn ly tứ tung, khắp nơi xẩy ra
những cuộc va chạm nhỏ. Tuy nhiên, kỹ
thuật tiến bộ hơn và nền kinh tế
cũng phát triển hơn. Thời kỳ Oda
Nobunaga sống là thế kỷ thứ XVI, ở
Nhật gọi là "thời chiến
quốc," song ở bên châu Âu th́ thời
kỳ đó gần trùng với "thời
Phục Hưng (Renaissance)". Mới nghe hai tên gọi
này người ta mường tượng ra hai
cảnh xă hội hoàn toàn khác nhau, song thực ra
chúng lại rất giống nhau. Thời đó
đă có những cải cách kỹ thuật
ở khắp nơi trên thế giới, có
nhiều phát hiện mới về địa lư[4],
và cải cách tư tưởng cũng tiến
bộ. Nghĩa là thời cận đại đă
manh nha. Gần 500 năm trước đó, từ
đời Đường mạt sang đời
Tống, khoa học tự nhiên và kỹ thuật
đă phát triển ở Trung Hoa. Chúng được
truyền sang Tây Âu và Nhật Bản dưới
dạng thức đă hoàn thành để
được đưa vào thực dụng.
Thế kỷ thứ XV, một trong những
kỹ thuật mới được ứng
dụng ở Nhât Bản là kỹ thuật phát
triển đất đai, bằng cách tát nước
khỏi những đồng lầy để phân
ra thành đất trồng trọt và ao hồ.
Kết quả là diện tích trồng trọt tăng
lên, sản lượng nông nghiệp gia tăng.
Mặt khác, ao hồ th́ nuôi cá, thả sen.
Nhờ đó, thức ăn được phong phú
hơn, t́nh trạng dinh dưỡng được
cải thiện hơn.
Lại nữa, những vùng đất
cằn cỗi cũng được dẫn nước
vào, biến thành đất trồng trọt.
Kết quả là ở mỗi vùng đất
đều được trồng trọt hoa
mầu thích hợp, xúc tiến phương
thức đất nào hoa mầu nấy. Nhờ
vậy đă thấy có những hoa mầu trước
đó xa lạ đối với Nhật Bản,
như trà, vừng (mè), khoai lang, hạt cải.
Chẳng bao lâu sau, người ta thấy xuất
hiện bông (g̣n) và đậu. Thật ra trà và
vừng là những hoa mầu đă có ở
Nhật từ lâu, như đă thấy lưu
giữ trong Shosoin[5],
song nhờ kết quả khai thác đất đai,
những hoa mầu này đă được
sản xuất ra rất nhiều.
Đến thế kỷ XVI th́ năng suất
thu hoạch càng tăng, chỉ một người
canh tác cũng thừa nuôi được cả
gia đ́nh. Do đó, sốngười không làm ǵ
cũng sống được, tăng vọt lên.
Những người trước kia gọi là
"samurai địa phương," tức là
giai cấp địa chủ, dần dần
biến thành vơ sĩ samurai chuyên nghiệp. Họ
là những người mà sử sách sau này
gọi là "hào trưởng."
Tuy nói thế, nhưng ở tiền bán
thế kỷ XVI tức là nửa đầu
của thời chiến quốc th́ những hào trưởng
này vẫn chưa thể bỏ nông nghiệp
được. Họ c̣n sống ở nông thôn,
kinh doanh quản lư sở đất của ḿnh, cũng
có khi tự ḿnh canh tác đồng thời thu sưu
thuế và giữ việc trị an thôn xóm.
Ở thế kỷ XX, th́ những nước
phát triển giầu có lại không tăng dân
số, trong khi những nước đang phát
triển lại có dân số tăng vọt.
Thế nhưng một định luật phổ
biến trong lịch sử là nếu cuộc
sống được phong túc hơn th́ dân
số tăng lên. Nhờ khai thác đất đai
và tiến bộ kỹ thuật nên năng
suất sản xuất đă tăng lên, và như
vậy đă làm cho dân số Nhật Bản
thời chiến quốc tăng nhiều.
Đại khái, kể từ lúc hết loạn
Onin (năm 1477) cho tới trận đánh Sekigahara[6]
(năm 1600), tức là trong khoảng hơn 120 năm,
Nhật Bản đă tăng dân số gấp
đôi và tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
gấp ba.
Ở khắp nơi, các hào trưởng
xuất hiện và cùng với bọn thủ
hạ của họ, làm thành những nhóm gọi
là "đảng con cháu gia đ́nh." Đám người
này sống nhờ vào sản xuất thặng dư,
làm thành một giai cấp trung gian mới. Thường
ngày họ tụ tập thành vài chục người
vừa làm nông nghiệp vừa lo việc quản
lư đất đai và trị an. Họ là
những tập thể khác hẳn với
những vơ sĩ quản lư nông trại, trang
ấp của giới quư tộc sống ở kinh
đô, như đă nói ở những chương
trước. Họ kết hợp nhiều nhóm
lại với nhau để một mặt
chống lại kẻ địch bên ngoài,
một mặt tranh giành lẫn nhau để
chiếm đoạt quyền cai quản đất
đai.
V́ vậy, trong giai đoạn đầu
của thời chiến quốc, từ cuối
thế kỷ thứ XV tới khoảng những năm
30 của thế kỷ thứ XVI hay là lúc Oda
Nobunaga sinh ra, ở Nhật Bản đă có
nhiều trận tranh giành, nhỏ là cỡ thôn xóm,
lớn cũng không hơn cỡ quận huyện.
Từ thắng lợi qua những trận đánh
như vậy, hoặc qua hôn nhân hay nhận con nuôi,
dần dần người ta thấy xuất
hiện những hào trưởng có thế
lực lớn.
Sử sách Nhật kể lại những
trận đánh liên quan tới việc tranh đoạt
quyền chúa của mạc phủ Ashikaga, cũng
chỉ thấy nói quy mô của trận đánh là
khoảng bốn, năm ngàn người. Những
trận đánh xẩy ra ở khắp nơi nói
ở đoạn trên th́ nhỏ hơn, thông thường
chỉ với quy mô vài trăm người. Đó là
những trận đánh do các hào trưởng
cầm đầu thôn xóm, chỉ huy động
nổi vài trăm tráng đinh nông dân là cùng. Tướng
dẫn đầu và quân lính như vậy
chỉ là những người nửa nông dân
nửa bộ
đội.
Xem như vậy, chức năng của hào
trưởng là vừa kinh doanh nông nghiệp
vừa bảo vệ xóm làng. Do đó, nếu người
cha chết yểu rồi mà người con hăy c̣n
nhỏ th́ người gia thần trưởng lăo
hoặc người chú trở thành người
đỡ đầu nắm giữ thực
quyền. Nói cách khác, kẻ có thực lực
đă vươn lên được và như
thế sinh ra trạng thái "hạ khác thượng." Bởi
thế, những kẻ làm nên như vậy thường
là có năng lực, lại khéo kinh doanh nông địa,
nên họ càng làm tăng thêm hoa lợi, mở
mang thêm ruộng đất, sản xuất hoa
mầu mới, khéo lưu thông hoa mầu mới này
để làm tăng thế lực của ḿnh.
Với thể lực gia tăng như vậy,
họ chiếm đoạt thêm đất đai bên
cạnh. Đến
khi Oda Nobunaga sinh ra th́ thực sự mới thành h́nh
những thế lực đáng gọi là nước
(tiểu quốc). Họ Hojo ở Sagami, họ
Takeda ở Kai, họ Imagawa ở Tsuruga, họ
Miyoshi ở Awa, họ Ouchi ở Suo v.v..
Họ Oda của Nobunaga cũng là một
thế lực mới nổi dậy như trên.
Thằng
đại ngốc thống nhất vùng Owari
Oda Nobunaga sinh ra trong gia đ́nh bầy tôi
của Oda Yamatonokami, ông này lại là bầy tôi
giữ chức phụ tá cho thái thú châu Owari, là
họ Shiba. Như vậy, họ Oda làm bầy tôi
cho bầy tôi của họ Shiba, nghĩa là
chẳng lấy ǵ làm danh giá.
Song cha Nobunaga, tức là Oda Nobuhide lại là
nhân vật khá bản lĩnh. Ông mở hà
cảng (cảng sông) ở nơi bản quán
Tsushima, rồi khai thác mở rộng đất
canh nông. Tiền làm ra từ đó ông đem mua
chuộc các hào trưởng xung quanh để
lấy vây cánh. Rồi ông đă được nâng
lên hàng đội trưởng samurai của
bốn quận thuộc châu Owari hạ, tức là
làm chức lớn nhất trong hàng con cháu Oda
Yamatonokami. Vùng Owari hạ ngày nay bao gồm từ
thành phố Nagoya tới bán đảo Chita nghĩa
là chẳng lớn là bao. Nobuhide có lănh địa
ở đó và giữ địa vị tương
tự như tổ trưởng của các hào trưởng
vậy.
Năm 1551 Nobuhide đột
nhiên qua đời.
Nobunaga là con thứ ba của Nobuhide. Hai người
anh đều là con vợ lẽ ở địa
vị kém nên Nobunaga có triển vọng được
nối nghiệp cha. Thế nhưng chưa
chắc ǵ Nobunaga đă được nối
nghiệp. Thời ấy chưa có lệ cho con
lớn thừa kế. Vả chăng, người
em cùng mẹ của Nobunaga tên là Nobuyuki lại
ở thành Suemori cùng với cha. Nghĩa là khi cha là
Nobuhide mất, Nobunaga có được thừa hưởng
gia tài hay không c̣n là chuyện bấp bênh.
Chức đội trưởng samurai của
bốn quận vùng Owari hạ, Nobunaga có kế
nghiệp được không, lại càng không
chắc chắn lắm. Số là, khi cha c̣n
sống, Nobunaga vẫn bị cha gọi là
"thằng đại ngốc."
Quả có thế, tuy là con một lănh chúa
trong tay có mấy thành, nhưng Nobunaga chỉ
mặc áo ngắn, bụng thắt một sợi
dây thừng đeo lủng lẳng một bầu
nước, lưng khoác túi đựng đá
lửa và vài vật linh tinh, cưỡi ngựa
chạy nhông ngoài đồng như một tên khùng.
Điều này đă thấy viết trong sách
"Truyền kư về Nobunaga" và nhiều sách
khác. Nói theo lối thời nay nghĩa là, con ông
tổng giám đốc công ty mà tóc nhuộm vàng,
cưỡi mô-tô chạy nhông nhông ngoài đường...
Khi cha chết, Nobunaga lúc ấy 18 tuổi,
đă tới đám tang cũng ăn mặc
kỳ cục như thường ngày, vốc
một nắm nhang bột, ném vào bài vị cha. So
với thế th́ người em nhỏ hơn
một tuổi là Nobuyuki đă ăn mặc
chỉnh tề, làm lễ theo đúng nghi thức.
Thời đó, 18 tuổi là đă thành niên
được ba năm, nghĩa là đă hoàn toàn
trưởng thành rồi. Thời nay có thể coi
như tương đương với người
đă tốt nghiệp đại học
được 5, 6 năm, nghĩa là đă
tới tuổi gần ba chục rồi. Một
đứa con trai như vậy mà đến đám
tang cha lại ăn mặc cẩu thả, ném
bột nhang vào bài vị cha, th́ dẫu có bị
thiên hạ đàm tiếu là "con cái đâu mà
kỳ cục vậy" cũng là chuyện
đương nhiên. Do đó, vấn đề
chọn người thừa kế tất nhiên
đă trở thành đề tài tranh luận
dữ dội trong gia đ́nh Oda vậy.
Từ thủa niên thiếu, Nobunaga đă
bị nhiều người không ưa. Cha Nobuhide yêu
người em, Nobuyuki, đến nỗi cho ở
cùng thành Suemori với ḿnh. Trong khi đó, Nobunaga
th́ cho bọn Hirate Masahide pḥ tá đóng giữ thành
Nagoya.
Bọn Shibata Katsu’ie, Hayashi Michikatsu, tức là
những trọng thần đời đời
của họ Oda, cũng phần đông ủng
hộ Nobuyuki.
Hơn thế nữa, chỉ hai năm sau khi
cha chết, Nobunaga đă bắt người lăo
thần tên là Hirate Masahide do cha chỉ định
làm phụ tá cho ḿnh, phải mổ bụng. Do
đó trong trận đánh với em, Nobunaga đă
không được tới hai chục phần trăm
thủ hạ theo ḿnh. Sách "Truyền kư về
Nobunaga" viết rằng phe ủng hộ Nobunaga
chỉ có bảy trăm người, c̣n phe
ủng hộ Nobuyuki là bảy ngàn người.
Cho dù số bảy ngàn người nói như
vậy là quá đáng đi chăng nữa, th́
sự kiện phe Nobuyuki đông hơn cũng là
điều chắc chắn.
Thế nhưng, khi nhập cuộc th́ Nobuyuki
trọng lễ nghi, chỉ lo bàn tính d́nh dang
chứ không thấy ra quân. Các tướng th́
mỗi người một ư kiến nên hành động
không thống nhất.
Trong khi đó, hai tướng Shibata Katsu’ie và
Hayashi Michikatsu sốt ruột, xông ra đối
đầu với Nobunaga. Nobunaga dẫn khoảng
bảy trăm quân, tự ḿnh đi đầu
xung trận đâm chết em của Hayashi Michikatsu
là Mitsuharu. Shibata Katsu’ie giật ḿnh trước
khí thế của quân Nobunaga, đă rút lui, và
Nobunaga đă đoạt được thắng
lợi.
Đến đây, ta thấy rơ cái suy nghĩ
của Nobunaga về quân sự, quân đội. Ông
không như đám hào trưởng trông cậy vào
quân đội xuất thân từ nông dân. Ṇng
cốt của quân đội ông là lính đánh
thuê ăn tiền, được ông chỉ huy
nghiêm khắc.
Cái lập trường trên được
thấy rơ rồi, th́ mặt khác người ta e
Nobunaga có nguy cơ bị ám sát. Một bộ
hạ trung tín của Nobunaga là Sasa Narimasa cũng là
một trong những người đă mưu toan
ám hại ông.
Sasa Narimasa đă đồng mưu với ngôi
chùa có cửa quan[7]
mà Nobunaga đă bắt phải dẹp bỏ đi,
bện
rơm thành một con rắn lớn d́m xuống
ao, làm cho dân quê kinh sợ la lên: "có rắn
lớn xuất hiện." Họ nghĩ, thế
nào Nobunaga cũng đến xem v́ ông vốn có tính
ṭ ṃ. Lúc ấy, họ chèo thuyền đưa ra
giữa ao, đợi cho Nobunaga cúi đầu nh́n
xuống đáy ao th́ chém tới, làm cho ông ngă
xuống ao; như thế chắc chắn sẽ
giết được. Mưu mô là như
vậy, song Nobunaga lại không làm như thế.
Vừa tới nơi, ông liền cởi quần
áo ra, ở trần nhẩy ùm xuống ao để
tự ḿnh xác nhận là không có rắn lớn
ở đâu cả. Thế là mưu mô của
Narimasa cũng thành vô ích.
Mọi chuyện như vậy xong, Nobunaga
đă được kế nghiệp cha. Ông nghĩ
là phải lập ra quân đội riêng của ḿnh.
Nếu nhờ các hào trưởng chọn tráng
đinh trong lănh địa của họ cho
nhập ngũ, th́ quân đội như vậy không
thể chiến đấu như ư muốn
của ông được. Ông muốn lập
một quân đội không cần đông người,
nhưng có sức dẻo dai có thể di chuyển
thần tốc theo ư muốn của ông. Oda Nobunaga
là người Nhật hiếm có, đă nghĩ
ra những chiến lược, chiến thuật
với sáng kiến về thời gian hơn là sáng
kiến về không gian. Sau khi chiếm được
quyền cai quản lănh địa của cha để
lại rồi, ông lần lượt tiêu diệt
bà con thân thích thuộc họ Oda ở xung quanh ḿnh.
Đánh chiếm lănh địa của họ cũng
có, xúi giục họ đánh lẫn nhau rồi ám
sát kẻ thắng cũng có, phần lớn là dùng
mưu mô xảo quyệt thôn tính họ. Khôn khéo
nhất là ông đă xui thái thú Shiba và phụ tá
thái thú Oda Yamatonokami đánh lẫn nhau, rồi
diệt luôn cả hai. Thế là ông đă
thống nhất được quá nửa bán
đảo Owari lúc mới 24 tuổi.
Trong suốt tám năm trời kể từ
khi cha chết, Nobunaga chỉ lo thanh toán các hào trưởng
trong vùng Owari. Thế rồi, hầu như vừa
thanh toán xong vùng Owari th́ xảy ra trận đánh
nổi tiếng là trận Okehazama. Trận
Okehazama không phải là đánh úp
Trận Okehazama đă diễn ra năm 1560; tính
tuổi đếm lúc ấy Nobunaga được
27 tuổi. Thời ấy tuổi 27 tương
đương với giữa lứa tuổi 30,
nghĩa là lúc con người đang trên đà phát
triển; Nobunaga lúc đó hẳn là sung sức
lắm.
Trận Okehazama có ấn tượng mănh
liệt nên đă được viết thành
nhiều truyện. Nội dung thường
được kể lại, có thể tóm lược
như sau. Để đối lại đại quân
ba vạn người của tướng Imagawa
Yoshimoto, Oda Nobunaga với vẻn vẹn hai ngàn người
đă xông tới, rồi nhằm lúc trung quân
Imagawa Yoshimoto đang tránh mưa rào ở nơi cùng
địa, đă đột kích vào, chém chủ
tướng Yoshimoto. Mất ư chí chiến đấu,
quân Imagawa tan ră phải rút lui. Tuy nhiên, trên
thực tế trận này không phải là đánh
úp. Mọi hành động của quân Nobunaga đều
được phía Imagawa thấy rơ hết.
Điểm trọng yếu là, trong khi quân
Imagawa tiến hành dọc theo tuyến đường
dài, th́ bị Nobunaga tấn công vào ngang hông. Xét
địa h́nh và trạng thái đường
lộ thời ấy th́ ba vạn quân Imagawa
phải xếp hàng dài trên 22 kilômét. Như
vậy nếu bị đánh vào ngang hông th́
sẽ yếu lắm. Do đó, phía Imagawa cũng
đă chia quân pḥng hờ hai bên trái và phải.
Thế nhưng, bị mưa rào nên gió đổi
chiều. Nhằm đúng lúc đó, Nobunaga đă
từ đầu gió đánh xuống và đă
đoạt thắng lợi. Đây là v́ với
đi quân của riêng ḿnh, ông đă có thể
đoán ngay, quyết định ngay và như
thế đă nắm được lúc gió đổi
chiều.
Có hai điểm người ta hay hiểu
lầm về trận đánh Okehazama.
Thứ nhất, người ta dễ có
thể tưởng tượng rằng Nobunaga
nửa đêm đột nhiên thức dậy,
vừa ngâm thơ vừa múa bài Atsumori: "Năm
mươi năm đời người ta,
nếu so trong thiên hạ th́ chỉ như một
giấc mơ..." rồi nhẩy phóc lên lưng
ngựa phóng từ thành Kiyosu, lúc ấy là thành
chính của ông, nhằm lúc địch quân không
pḥng bị, đánh úp mà được thắng
lợi. Thế nhưng, sự thật không
thể là như vậy được. Bởi v́,
Nobunaga xuất quân khỏi thành Kiyosu là hồi hai
giờ sáng, nhưng tới Okehazama là lúc một
giờ hay hai giờ chiều. Như thế,
từ thành tới trận địa là khoảng
12 tiếng đồng hồ, nhưng khoảng cách
này chỉ bằng quăng đường đi
bốn, năm tiếng đồng hồ mà thôi.
Trong khoảng thời gian này, ông đă ghé
lại làm lễ ở đền Atsuta, chờ
bộ hạ tụ tập lại đó. Ông đi
ṿng quanh mấy ải quan, thu nạp hết quân
đội để tập trung lực lượng
vào trận quyết chiến này. Đến gần
trưa, ông mới phát hiện được
trung quân của Imagawa, ông bèn cho quân vào một
ải gần đó chờ thời cơ.
Những chuyển động vừa kể
hẳn phe Imagawa cũng thấy rơ cả. Khu
Okehazama này từ tám năm trước đă là
lănh địa của Imagawa, có thành quách, có
ải quan của phe Imagawa. Thế nhưng may thay
bỗng có mưa rào. Nobunaga đă đoán sẽ
có mưa rào v́ ngày hôm trước đă có mưa
rào rồi, mà theo câu tục ngữ địa phương
th́ hẳn có "mưa rào ba ngày liền."
Ở chỗ này, điều quan trọng là
Nobunaga đă nhận được báo cáo
rằng "trung quân của Yoshimoto giữ nguyên
đội h́nh, đang nghỉ ngơi trong thung lũng
Okehazama." Nobunaga đă ban thưởng công
đầu cho Yanada Hirotada (Masatsuna), người
đă đem thông tin này về.
Điểm thứ hai là sức thống
suất của quân Nobunaga với sự kiện
họ đă di chuyển liên tục, từ đông
sang tây, trong hơn 12 tiếng đồng hồ.
Quân Imagawa mặc dù nh́n thấy quân Nobunaga di
chuyển như vậy mà không đối phó
lại được. Đó là v́ họ vốn là
quân đội liên hợp của nhiều hào trưởng,
không thể ra lệnh một tiếng mà làm
chuyển động ngay được. Đương
nhiên, phe Imagawa cũng nghĩ tương tự
về quân Nobunaga, nên đă không cho rằng địch
quân có thể tấn công toàn lực một cách
bất ngờ như vậy. Do đó, sợ toàn
quân bị rối loạn nên họ đă không
gọi quân tiên phong trở lại, họ cũng
không t́m cách để cho chủ tướng
Yoshimoto thoát được ra vùng an toàn. Nghĩa
là, tổ chức cứng ngắc của quân
đội liên hợp hào trưởng, th́ không
thể tùy cơ ứng biến được.
Từ đó, họ đâm ra đoán sai là có
thể cầm cự bằng lực lượng năm
ngàn người của trung quân dù có bị đánh
vào bên hông.
V́ ấn tượng mănh liệt của
trận Okehazama theo truyền thuyết, nên hể nói
đến Oda Nobunaga là nhiều người cho
đó là vơ tướng dụng binh thần
tốc, giỏi đánh úp. Thế nhưng,
thật ra với quân số ít mà nhờ đánh
úp nên thắng được đại quân, th́
trong đời Nobunaga cũng chỉ có hai lần.
Một lần là trận Okehazama vừa kể,
lần thứ hai là trận đánh với Ozaka
Honganji năm 1576. Lúc đó ải Tennoji bi một
vạn mấy ngàn quân nổi loạn bao vây.
Nobunaga đă thống suất bốn ngàn quân phá
trùng vây vào cứu bọn Akechi Mitsuhide cố
thủ trong ải này. Chính Nobunaga cũng bị thương.
Sở dĩ ông dám liều mạng như vậy
là v́ ông đoán rằng quân nổi loạn không
nhất thống nên có thể thắng được.
Thành công lớn, song không lập lại cách
làm như vậy. Đây là điểm chứng
tỏ lư trí đáng phục của nhân vật
Oda Nobunaga. Người thường hễ thành công
rồi th́ hay làm đi làm lại cùng một phương
thức. Trận Okehazama, Nobunaga đă dùng đoản
binh mà thắng được đại quân, th́
lần sau cũng lại áp dụng chiến pháp
đó chăng? Nhưng không, Nobunaga đă không
hề lập lại cái kinh nghiệm thắng
của ḿnh.
Trong những trận đánh sau, với mười
lần xuất quân ra Mino, đánh Anegawa hay
Nagashino, lần nào Nobunaga cũng điều động
quân số nhiều hơn địch. Để
được quân số đông hơn, ông đă
không quản ngại khó khăn, không tiếc
tiền, thậm chí không ngại mất thể
diện. Chẳng hạn, trong trận đánh
Anegawa, để đối lại 15 ngàn quân liên
hợp Asakura-Arai, Nobunaga đă có tới 29 ngàn quân
của riêng ḿnh rồi; thế mà ông c̣n cầu
cứu thêm viện binh của Tokugawa Yeyasu ở
Mikawa, để có tổng số quân lên tới
34 ngàn người, mới đánh trận. Trong
trận Nagashino cũng vậy, để đối
lại hơn mười ngàn quân Takeda, Nobunaga
đă điều động hơn 30 ngàn quân.
Điều động nhiều quân th́ vừa
mất thời gian vừa tốn tiền. V́
thế, cho đến lúc Nobunaga kéo được
quân đội cứu viện, th́ phe ḿnh đă
nhiều lần bị mất ải quan trước
rồi. Ấy thế mà ông vẫn không hoảng
hốt, không hấp tấp, vẫn bài binh bố
trận đàng hoàng. Nhập trận, ông để
cho địch tấn công trước, rồi sau
khi chặn được đợt tấn công
của địch rồi ông mới phản công
mănh liệt. Nghĩa là ông chuyên áp dụng
chiến thuật "thắng sau." Đúng là
chiến thuật cần có sức chịu đựng,
có niềm tin bền bỉ.
Nh́n suốt cuộc đời Nobunaga, th́
trận Okehazama là ngoại lệ của ngoại
lệ, một chiến trận trái ngược
với sở thích của Nobunaga. Mặc dầu
vậy, chiến thắng đó thật là
ngoạn mục. Nhờ chiến thắng Okehazama,
Nobunaga đă cất được mối lo âu
về phía đông, lôi kéo được Tokugawa
Yeyasu (thời đó c̣n gọi là Matsudaira Motoyasu)
bỏ phe Imagawa nhập phe ḿnh, để ông yên tâm
đánh dẹp miền "đàng trên[8],"
hướng vào cách châu Mino, Ise, Omi rồi Kyoto. Sư
lựa chọn như vậy cho thấy Nobunaga
đă có con mắt chiến lược tinh tường.
Thế nhưng, nói về chiến thuật và tác
chiến th́ Nobunaga chưa hẳn đă là tay
giỏi. Chỉ một châu Mino mà ông đă
mất bảy năm mới lấy xong. Trong
khoảng thời gian đó, ông đă phải
động binh tới mười
lần, hầu hết bị thua.
Tuy nhiên, bỏ ra bảy năm với mười
lần ra quân chỉ để chiếm Mino, đủ
chứng tỏ cái chí bền bỉ, cái chân giá
trị của Nobunaga vậy. Phương
sách "phân ly binh nông" thể hiện nhu
cầu thời đại
Vậy một người vụng về
chiến thuật và tác chiến như vậy,
lại đă hoàn thành được tới 70
phần trăm cái chủ trương chính
trị "thiên hạ bố vơ[9],"
là tại sao? Điều
thứ nhất Nobunaga đă thực hiện, là
trả tiền cho binh sĩ. Nói cách khác, ông đă
áp dụng đường lối "tách rời
binh nông," tức là tách quân lính ra khỏi nông
dân. Tuy
nhiên, nếu chỉ coi hiện tượng "tách
rời binh nông" là sự kiện một
loại lính nhà nghề, không làm nông nghiệp
nữa, đă xuất hiện, th́ phải nói
họ Asakura ở vùng Hokuriku đă thực
hiện đầu tiên. Như kể trên, nhờ
năng suất nông nghiệp cao lên, nên có một
loại vơ sĩ samurai không cần canh tác
ruộng đất mà cũng có ăn. Họ không
cần tự ḿnh đứng ra quản lư đất
đai nữa, mà có thể trao công tác này cho
quản gia. C̣n bản thân họ th́ sống
ở thành thị, bên cạnh chúa, tham gia vào
hoạt động xă giao, bàn luận việc chính
trị. Nhờ
kinh tế phát triển mà binh và nông đă tự
nhiên tách rời nhau ra, là h́nh thức đă phát
sinh ở vùng kinh kỳ, vùng Etsuzen từ trước
thời Nobunaga, song sự việc đó không có ư
nghĩa chính trị quân sự đáng kể nào
cả. Ngược lại, v́ có thêm nhiều gia
thần ở địa vị cao tụ tập
xung quanh, sinh ra thói họp hành bàn bạc làm cho
việc nước chỉ thêm dềnh dang hơn
mà thôi. Cơ
chế "tách rời binh nông" của Nobunaga
th́ trái ngược hẳn. Nó đă được
thực hiện từ hàng vơ sĩ hạ cấp
trở lên. Nghĩa là, ông đă lập ra một đội quân trả lương. Điều này làm cho
quân đội của Nobunaga khác hẳn các quân
đội khác. Đây là điểm xuất phát
của nhiều cải cách khác nữa. Thời
chiến quốc tuy nói là đời "hạ
khắc thượng," song không hề thấy
một vơ sĩ vô danh tiểu tốt, một nhân
vật với lai lịch không rơ rệt nào,
lại có thể trở thành một đại vơ
tướng được. Hàng thái thú, quận
thú, lại càng không thấy có như vậy.
Những người như Hojo Soun, Saito Dosan,
Matsunaga Hisahide tuy xuất xứ không rơ rệt song
đều là những quận thú đáng nể
cả. Phương pháp của họ là, trước
hết đóng vai sư trà đạo[10]
hay thương gia để được
gần gũi gia đ́nh thái thú. Từ đó
họ t́m cách làm thân với con gái, rồi vào
ở rể
nhà thái thú. Hoặc, họ làm thân với vị
gia thần trưởng lăo, rồi t́m cách
lật đổ thái thú đi. Tuy
nhiên, trong đám gia thần của Nobunaga th́ không
ít người lai lịch xuất xứ không rơ
rệt, đă trở thành đại tướng.
Bọn Hashiba (sau này đổi tên là Toyotomi)
Hideyoshi, Akechi Mitsuhide, Takigawa Kazumasu đều là như
vậy cả. Tại
sao việc này lại chỉ xẩy ra ở ḍng
họ Oda, chứ không xẩy ra ở các ḍng
họ khác? Muốn hiểu rơ điều này,
cần phải xét chế độ quân binh
thời đó. Như đă kể trên, trước
khi Nobunaga xuất hiện, quân binh là do các hào trưởng
chiêu mộ tráng đinh trong thôn xóm họ,
rồi tự họ đứng
làm đội trưởng. Những đội
binh như vậy tụ tập lại thành quân
đội lớn. Chẳng hạn, quân đội
của Shibata Katsuie là gồm những tráng đinh
trong lănh địa của ông tụ tập
lại mà thành. V́
thế, những người không có lănh địa
th́ không có gia thần, hoặc nếu có cũng
chỉ có hai, ba người, bởi v́ tiền lương
hoặc thóc gạo chủ cấp cho chỉ có
thể nuôi được một sốngười
ít ỏi. Tiêu chuẩn thời đó là cứ
chỉ huy năm binh lính th́ được
cấp bổng lộc một năm là 100 hộc
lúa (mỗi hộc
khoảng 180 lít). Như thế, muốn chỉ huy
một đi quân 500 người th́ phải có lănh
địa đủ cung cấp một
vạn hộc lúa. Miyamoto
Musashi[11]
h́nh như có tham chiến trong trận Sekigahara. Ông
đă được mướn v́ có vơ nghệ
siêu quần. Song dù cho là bậc kiếm hào, nhưng
chỉ với tài cá nhân như vậy, th́ cao
lắm cũng chỉ được bổng
lộc 100 hộc lúa. Ấy là chưa kể, ông
đă tham gia vào phe chiến bại, cho nên
chẳng được chức tước ǵ
cả. Ngay cả nếu tham gia vào phe thắng
đi chăng nữa, rồi lập công hai
lần ba lượt, th́ cũng chỉ được
bổng lộc 300 hộc là cùng. Thủ hạ
chỉ có 15 người. Thế
nhưng Nobunaga có nhiều lính thuê bằng
tiền, không có quan hệ ǵ với lănh địa
cả. Có đội trưởng không có lănh
địa, nhưng đă có tiền thuê hàng
mấy chục, mấy trăm lính. Tuy
nhiên, thời đó dùng lính thuê bằng tiền,
thường là vất vả và bị mang
tiếng. Đó là v́, thời ấy những người
lương thiện th́ đều phải
thuộc một tổ chức nào đó. Cho nên,
binh lính thuê bằng tiền như vậy chỉ
là những thành phần lưu lạc giang hồ,
hành khất, du thủ du thực. Nông
dân th́ thuộc vào xóm làng, thày chùa thuộc vào
chùa chiền, đạo từ thuộc vào đền
miếu, mỗi người đều có tổ
chức riêng biệt. Người đi buôn cũng
phải thuộc vào một tập thể, gọi
là "za (tổ buôn)" mới làm ăn
được. Buôn bán lén lút bị cấm, và là
tội phạm. Nghĩa là thời trung cổ như
vậy ai ai cũng phải thuộc vào một
tập thể nào đó. Cho nên nếu không
thuộc vào một đoàn thể, tập thể
nào cả th́ bị coi là "du thủ du thực
(ruronin)", tương tự như người
vô gia cư (homeless) ngày nay vậy. C̣n tệ
hơn thế nữa, tên gọi đó gần
đồng nghĩa với người tội
phạm. Thời
Nobunaga dân số tăng vọt lên, nên phát sinh ra
nhiều ruronin. Hàng hóa lưu thông nhiều, nên
chỉ những thương nhân thuộc những
đoàn thể chính thống không thôi, th́ không
đủ giải quyết. Do đó, dù cấm
mấy cũng không ngăn chặn được
những người buôn bán lén lút. Ngay như
Hideyoshi cũng đă có một thời bán kim khâu,
rơ ràng là buôn bán lén lút, buôn lậu. Binh
lính do Oda Nobunaga thuê là những người như
vậy. Nhân cách th́ xấu, đánh trận th́
yếu. Bởi thế, mặc dầu Nobunaga đánh
ra Mino với số quân đông gấp ba mà
vẫn bị thua nhiều lần. Điều này là
chuyện đương nhiên. Thời đó, binh
sĩ, nhất là đám hạ sĩ quan, liều
chết ngoài chiến trận chẳng phải v́
trung thành với chủ, cũng chẳng phải v́
sợ bị thần phạt. Họ chỉ sợ
khi trở về làng bị bà con xỉa xói:
"Thằng ấy bỏ chạy trước. Nó
là thằng hèn. V́ nó bỏ chạy nên mọi người
bị khổ lây." Nói cách khác, chỉ v́
muốn lên mặt với bà con lối xóm nên
họ đă đánh trận chối chết.
Thế nhưng, binh sĩ đánh thuê cho Nobunaga
chẳng có tập thể, chẳng có cộng
đồng nào để trở về cả, cho
nên có tiền ở trong thành th́ ăn to nói
lớn, song ra trận th́ hể thấy nguy là
bỏ chạy trước. Cái khuynh hướng này
tiếp diễn cho tới trận Nagashino. Trận
Nagashino là trận Nobunaga dùng súng (súng ṇng thép)
bắn tan quân Takeda, thế mà quân Nobunaga cũng
giảm đi mất bốn ngàn người, không
phải v́ bị thương hay tử trận, mà
v́ đă bỏ chạy trước khi lâm
trận. Ấy đấy, họ là những binh lính
thiếu tin cậy như vậy đó. Chiến
thuật mới là "chơi xấu" Nobunaga
thuê toàn hạng lính yếu hèn như vậy cho nên
thua trận luôn. Đến nỗi các gia thần
đă phải phàn nàn rằng "Sao tiểu
chủ lại làm việc khờ dại như
vậy? Sao không để bọn tôi đem quân nông
dân từ lănh địa ra đánh trận thay
cho?" Cái lư do lớn nhất Nobunaga bị
gọi là "thằng đại ngu," là như
vậy. Thế nhưng Nobunaga tin tưởng
rằng quân đội yếu nhất Nhật
Bản của ông lại có thể chinh phục
thiên hạ được. Bởi v́ mỗi
trận đánh th́ họ yếu thật, song
họ đánh lúc nào cũng được và
đánh măi cũng được. Lính nông dân
mạnh thật. Nhưng lúc mùa màng họ
phải về quê gặt hái, cầy cấy.
Nếu cả hai bên địch ra đều là lính
nông dân cả, th́ đến lúc mùa màng hai bên
tự nhiên phải ngưng chiến. Thế nhưng,
lính do Nobunaga bỏ tiền nuôi, th́ không gặt cũng
không cấy lúa. Nhằm lúc bên địch
chỉ c̣n vài chục người giữ ải
thôi, th́ với một ngàn, hai ngàn quân bao vây,
thế nào ông cũng thắng dù là với quân
đội yếu hèn. Như
thế, ông chiếm được một, hai, ba
quan ải hay thành tŕ, th́ vừa đúng lúc
việc canh tác xong, lính nông dân trở lại
chiến trường. Nobunaga lại thua, bỏ
chạy. Một số tử trận có, bỏ
trốn có, nên quân số giảm đi. Nhưng,
đem tiền ra mua chuộc th́ bọn người
du thủ du thực, khất thực lại tụ
tập tới và quân số lại tăng ngay. Thế
nhưng, phía lính nông dân th́ không như vậy
được. Họ c̣n phải nuôi cả gia
đ́nh sống sót của người đă
tử trận nữa. Thậm chí, nếu ngay trong
lúc mùa màng mà cũng bị động viên
nữa, th́ nông dân chịu không nổi. Do đó,
họ nghĩ rằng thà chịu cho Nogunaga cai
trị c̣n hơn. Thế rồi, họ chịu
bị "thuyết ḥa" và dần dần
chịu thần phục Nobunaga. Nobunaga
dùng tiền thuê lính nên dù bộ đội
yếu hèn cũng có thể đánh dẳng dai,
đánh măi không chán. Kẻ địch của
Nobunaga đều chịu thua v́ sự dẳng dai
này. Chẳng hạn, Asai Nagamasa là một vơ tướng
giỏi, thành Kotani của ông được coi như
vững không thể hạ được. Quân
mạnh và đoàn kết chặt chẽ. Ông nghĩ
rằng chỉ cần cố thủ trong thành là
sẽ thắng, hay ít nhất cũng không thua. Ông
cho rằng phe tấn công sẽ phải lui trước
khi mùa gặt tới và ông đă chỉ chuẩn
bị lương thực dựa vào ư nghĩ
đó mà thôi. Thế nhưng binh của Nobunaga là
binh lănh lương nên họ không triệt thoái.
Họ xây thành phụ bên cạnh thành Kotani để
canh chừng, bao vây lương thực. Đó là
chiến thuật của Nobunaga. Asai Nagamasa v́ không
thấy Nobunaga chịu đường đường
đối chọi với quân ḿnh mà chỉ
dằng dai bao vây lương thực, đă
gọi Nobunaga là "đồ hèn," rồi
chết. Nói
chung, những chiến lược chiến
thuật gia giỏi đều thoạt đầu
là đồ hèn cả. Bởi v́ họ đă phá
vỡ cái thường thức từ trước,
nên bị gọi là đồ hèn. Trong trận
Gempei, họ Minamoto đă thắng trận hải
chiến là nhờ Minamoto Yoshitsune bắn chết
người lái thuyền. Cho đến thời
ấy, phàm đánh thuyền, người ta
chỉ bắn chết vơ sĩ samurai tức là thành
viên chiến đấu, chứ cả hai bên đều
tránh không bắn chết lái thuyền v́ đó không
phải là thành viên chiến đấu. Bởi
nếu làm như vậy, sau này ngư dân lái
thuyền sẽ không chịu đầu quân
nữa, và thủy quân sẽ không thành được. Yoshitsune
vốn là người miền Đông, không nghĩ
xa tới tương lai thủy quân, nên đă phá
lệ cũ, nhằm bắn người lái
thuyền trước nhất. Người lái
thuyền không mặc giáp trụ, nên bị trúng
tên th́ bị thương nặng không lái
thuyền được nữa. V́ vậy, họ
sợ bỏ chạy hết, khiến đoàn
thuyền của Heike không xoay xở được.
Các tướng Heike đă thốt lên
"Yoshitsune là đồ hèn!" mà chết đi. Về
chiến lược, hay trên mặt kinh doanh cũng
thế, người đầu tiên nghĩ ra phương
pháp mới đều là phá bỏ cái cũ, cái
thường thức đi. Như vậy, cũng
có thể coi đó là hèn, hay ít lắm cũng là
chơi xấu. Tuy nhiên, chính ở đó mới có
tính sáng tạo. Nobunaga là người giầu tính
sáng tạo, tuyệt đối tin tưởng vào
con mắt tiên kiến của ḿnh. Ông không hề
sờn chí v́ một hay hai lần thất bại.
Ngược lại, ông dẳng dai đối phó
làm cho địch thủ phải ngán. Ngay từ
đầu, ông đă tiên liệu sự thất
bại và lời chê bai của người đời
vậy. Cơ
chế thị trường tự do "chợ
vui, tổ buôn vui" đă làm đổi nền
kinh tế Điều
thứ hai cần suy nghĩ về đường
lối chiến tranh và chính trị của Nobunaga,
là nguồn gốc tài chính. Điểm này tất
cả các tiểu thuyết hoặc sử sách
từ trước tới nay đều bỏ qua
không bàn tới. Nếu
đă dùng tiền để thuê lính đánh
trận, đương nhiên Nobunaga cần có
rất nhiều tiền. Tiền đó lấy
ở đâu ra? Dĩ nhiên nếu lănh địa
tăng lên th́ lúa gạo hoa màu thu được
cũng nhiều, bán đi hẳn được
nhiều tiền hơn. Thế nhưng, tiền như
vậy vẫn chưa đủ. V́ vậy, Nobunaga
đă nghĩ ra cơ chế "chợ vui,
tổ buôn vui." Theo
lịch sử ghi chép, th́ Nobunaga lần đầu
tiên áp dụng cơ chế "chợ vui, tổ
buôn vui" ở chợ Kano, là năm 1568 sau khi
chiếm xong đất Mino. Đương nhiên, khi
đă thành văn như vậy nghĩa là chế
độ đă hoàn thành, và như vậy
hẳn đă phải có một thời gian
thử nghiệm trước đó rồi.
Hẳn là một mẫu h́nh của cơ chế
"chợ vui, tổ buôn vui" đă phải
được áp dụng ở vùng Owari từ trước
đó mấy năm rồi. Trước
đó, khắp nơi có cửa quan và các tổ
buôn. Hàng hóa muốn được lưu thông th́
phải đóng thuế (thuế thông hành) cho
đền chùa hay hào trưởng mỗi khi qua
cửa quan. Thương nhân th́ tổ chức thành
tổ, thành nhóm, nộp tiền vận chuyển,
hoặc cho đền chùa hay cho quư tộc ở
kinh đô. Nobunaga
đă băi bỏ cửa quan và tổ buôn đi.
Thoạt mới nh́n th́ tưởng làm như
vậy không thu được thuế nên tiền
không vào nữa. Nhưng Nobunaga đă dám làm. Đương
nhiên, những đền chùa hoặc quư tộc có
thu nhập từ những cửa quan đều
phản đối. Về sau, Nobunaga đốt chùa
Hieizan, chùa Ishiyama-Honganji hay đánh nhau với
shogun Ashikaga, cũng đều là v́ vấn đề
băi bỏ cửa quan và tổ buôn này. Nói
theo lối ngày nay, th́ băi bỏ cửa quan và
tổ buôn là một h́nh thức giảm bớt
quy chế, luật lệ. Đương nhiên,
những người thuộc thể chế cũ
phản đối, song kinh tế tự do phát
triển, th́ sinh ra sức mạnh kinh tế
lớn. Nhất là đối với Nobunaga, ông
cần có tiền nuôi quân đội, th́ sự
tự do hóa làm cho kinh phí lưu thông giảm
bớt đi, ông có thể bán đắt sản
vật vùng Owari để mua rẻ súng ống. Cái
đó mới quan trọng. Xưa
nay, có cửa quan hay có tổ buôn th́ có tiền vào
nhất thời, song thực tế là tốn kém hơn.
Nhất là đối với Nobunaga, ông phải
mua nhiều quân trang quân cụ nên chính ông là người
mua nhiều nhất. Vậy, để cho hàng hóa
lưu thông dễ dàng, kinh phí lưu thông rẻ
đi là điều cần thiết đối
với ông. Ông biết rằng nếu kinh tế
phát đạt, th́ nhờ thế nguồn thu
nhập của ông cũng sẽ tăng lên. Cho
dù thu nhập tài chính nhất thời có giảm
đi, song cứ tự do hóa để cho kinh
tế phát triển, là chính sách kinh tế mà
tổng thống Mỹ Reagan (gọi là Reaganomics)
đă áp dụng. Chính sách như vậy Nobunaga
đă nghĩ ra từ thế kỷ thứ XVI và
đă áp dụng thành công, th́ quả thật
Nobunaga là một bậc thiên tài. Đường
lối "chợ vui, tổ buôn vui" làm cho
kinh tế phát triển, th́ tiền
"thuế" thâu được nhiều.
Rồi với tiền đó, lại thuê thêm lính,
mở rộng lănh địa hơn, tức là
lại có cơ sở thu thuế được
nhiều hơn nữa. Như vậy là đă
tạo ra được cái "ṿng
thiện." Đồng thời đă thay đổi
được tổ chức. Sự
thay đổi tổ chức và sự xuất
hiện của "binh gia" chuyên nghiệp Quân
đội vốn do các hào trưởng mộ
tập từ xóm làng dắt tới. Người
dắt tới như vậy đương nhiên có
tiếng nói quan trọng. Họ trở thành
một tập thể gia thần với quyền
lợi cá nhân của họ được coi là
ưu tiên. Cái gọi là "24 tướng lĩnh
của Takeda" chính là bọn hào trưởng
cai trị các địa phương của châu
Koshu mà Takeda làm chúa. Nobunaga
đă bắt đầu dùng lính thuê. Các hào trưởng,
gia thần của ông lấy thế làm bất măn,
và do đó đă liên tiếp xẩy ra những
vụ âm mưu ám sát ông. Nói theo ngôn ngữ ngày
nay, th́ người cha đă sáng lập ra công ty,
rồi người con kế nghiệp làm ông
chủ đời thứ hai, song ông chủ đời
thứ hai này đă xuất hiện trong bộ
quần "gin" áo blu-dông da, ưu đăi
bọn du thủ du thực và bọn người
làm mướn. Đương nhiên, các nhân viên
kỳ cựu từ đời cha sáng lập,
phải th́ thầm với nhau rằng: "Không
thể để như vậy được!
Phải đổi người em lên làm tổng
giám đốc." Thế nhưng, ông tổng giám
đốc trẻ tuổi đời thứ hai
lại có nhiều sáng kiến làm cho công ty phát
đạt. Không những thế, ông cắt
bỏ những mặt hàng cũ, bắt đầu
những mặt doanh thương mới. Nhân viên
th́ ông không chú trọng tới bằng cấp, thâm
niên nữa, mà để cho mọi người
thi đua tự do. Nếu trước kia, công ty
lợi dụng mối quan hệ tốt với các
cơ quan nhà nước để bán sản
phẩm với giá đắt, th́ nay ông bỏ
lối làm ăn đó đi, quay sang bán rẻ
để thu hút khách hàng từ quảng đại
quần chúng. Ông phế bỏ những đại
lư cũ đi, mà bán trực tiếp cho người
tiêu dùng. Hơn thế nữa, với các cấp
chủ nhiệm, trưởng pḥng và các nhân viên
êlít xuất thân từ các đại học danh
tiếng, th́ ông tuyên bố: "Tụi bay
chớ có chơ mơm vào. Tao làm việc với đám
nhân viên cưng mới tuyển kia." Thực
tế, ông đă dùng toàn những nhân viên ít
học, mới mướn. Ngay cả Toyotomi
Hideyoshi (sau này thay ông làm chúa thiên hạ) đă
từng buôn lậu, tức là phần tử đáng
lẽ đă bị gạn lọc ra khỏi xă
hội coi trọng học lực, song cũng
được ông trọng dụng. Ông lần lượt
đưa những người như vậy vào
để triệt để cải cách tổ
chức. Trong
trận Nagashino năm 1575, Nobunaga, năm ấy 42
tuổi, đă dàn ba ngàn tay súng bắn tan đội
quân khét tiếng là vô địch của Takeda.
Truyện này đă trở nên quá nổi
tiếng. Nhưng tại sao ông đă làm
được như vậy? Hay nói đúng hơn,
tại sao những lănh chúa khác lại không làm
được như vậy? Bảo
rằng Nobunaga có con mắt tiên kiến nên đă
biết súng là một vơ khí lợi hại, th́ không
đúng hẳn. Thời ấy, hầu hết các
lănh chúa đều biết súng là vơ khí lợi
hại cả. Ngay như họ Mori th́ từ 20 năm
trước đó, đă ghi lại rằng binh sĩ
bị thương nhiều nhất v́ bị súng
bắn. Tuy nhiên, sử dụng súng một cách
tập trung triệt để như Nobunaga th́ chưa
ai biết làm, cũng chưa ai làm được,
trước đó cả. Lư do là họ không có căn
bản tài chính để mua nổi ba ngàn
khẩu súng. Lính
tráng thời ấy là do các hào trưởng
dắt tới, cho nên vơ khí, lương thực
đều phải tự túc. Hào trưởng th́
cưỡi ngựa mặc giáp trụ. Lính nông dân
kha khá một chút mới có súng vác theo. V́
thế, súng tuy có thật song tính theo đơn
vị bộ đội của mỗi thôn xóm th́
số súng chỉ chiếm khoảng 5 tới 10
phần trăm. Như vậy, muốn lập
một đội súng th́ phải gom mấy tay súng
của thôn A, cộng với vài tay súng của thôn
B, thêm vào đó dăm cây súng của thôn C, v.v..
Chừng đó, người hào trưởng thôn
A sẽ kêu lên: "Không thể dắt thằng
đó của tôi đi được." Hào trưởng
thôn C th́ nói: "Người thôn khác tới
đây đâu được!" v.v.. Thế
nhưng, Nobunaga th́ tự bỏ tiền ra mua súng
phát cho lính, lính cũng do chính mính bỏ tiền
ra thuê. V́ vậy chỉ riêng họ Oda đă
lập ra được đội quân bắn súng.
C̣n đám tướng sĩ cưỡi ngựa
trước kia th́ bị gạt lui xuống
hậu trường. Nói cách khác, đám người
mới tuyển chỉ có học lực trung
học th́ được ưu đăi, c̣n nhóm êlít
tốt nghiệp đại học th́ bị cho
ngồi chơi xơi nước. Đương nhiên,
bọn ngồi chơi xơi nước này
phản ứng. Nhưng Nobunaga không sợ, không chùn,
đă quyết tâm làm và làm được. "Rải
vơ ra khắp thiên hạ" và ư thức
"quốc gia" Cái
đáng phục của Nobunaga là ông đă sáng
tạo ra một loạt cơ chế mới,
từ tổ chức, tài chính, nhân sự tới
chiến lược chiến thuật. Nhờ
đó, xă hội đă đổi hẳn bộ
mặt. Nói cách khác, đường lối
của Nobunaga đă gây ra một luồng biến
đổi từ xă hội trung cổ sang xă
hội cận đại, xă hội hiện đại,
về mọi mặt, từ tài chính, kinh tế,
tới quân sự. Tất
nhiên, các thế lực thủ cựu đều
phản đối, và v́ thế, các vụ âm mưu
ám sát Nobunaga đă xẩy ra không dứt. Vụ
Akechi Mitsuhide được nổi tiếng v́
đă thành công, song trước đó đă có
biết bao nhiêu vụ âm mưu ám sát ông rồi.
Như đă nói, ngay từ khi c̣n ở Owari đă
có nhiều vụ âm mưu như vậy, cho
tới khi ông vào kinh đô th́ những vụ
đó tiếp diễn liên tục. Asai Nagamasa
lấy em gái ông, tên là O-Ichi, đă đồng lơa
với họ Asakura làm loạn. Mạc chúa Ashikaga
Yoshiaki, vốn được Nobunaga đôn lên
địa vị đó, đă chống lại ông
ba lần. Matsunaga Hisahide, th́ dù biết chẳng làm
nên cơm cháo ǵ, cũng đă dương cờ
phản hai lần. Gia thần có ảnh hưởng
lớn là Araki Murashige ở vùng Settsu cũng làm
phản. Nghĩa là, v́ Nobunaga đă thực
hiện cải cách, không nh́n nhận những
quyền đă có, nên đám gia thần có
ảnh hưởng từ trước đă
phản kháng liên tục. Nhưng Nobunaga không
sờn ḷng, cứ tiếp tục đường
lối cải cách của ḿnh. Kết
quả cải cách của Nogunaga đă để
ǵ lại cho lịch sử Nhật Bản? Trước
hết với phiêu ngữ "Rải vơ ra
khắp thiên hạ," ông đă thống
nhất được một nửa nước
Nhật. Chính v́ có Oda Nobunaga, mà sau này mới có
Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Yeyasu, những người
đă thống nhất được Nhật
Bản. Chính Nobunaga là người đă sáng
lập ra nước Nhật tập quyền trung
ương kiểu hiện đại. Thời
mạc phủ Ashikaga trước đó, rồi
thời mạc phủ Kamakura trước nữa,
đều đă nh́n nhận sự phân quyền
của quư tộc, của đền chùa và
của samurai có lănh địa. T́nh trạng phân
quyền như vậy đă được duy tŕ
cho tới khi Nobunaga hô hào "rải vơ ra
khắp thiên hạ," nâng tầng lớp vơ sĩ
samurai lên thành thế lực chính trị duy
nhất trong thể chế tập quyền trung
ương mà chế độ luật lệnh
thời cổ đă hướng tới. Nhật
Bản là nước từ xưa đă
được thống nhất về mặt
lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, cả đến
tín ngưỡng và tập quán. Song về mặt
chính trị, th́ cái ư thức quốc gia coi
Nhật Bản là một nước duy nhất, càng
ngày càng trở nên mỏng manh hơn, kể
từ thời cổ tới sau thời đại
Nara. Nhận thức điều đó rơ ràng và làm
sống lại ư thức quốc gia chính là
Nobunaga vậy. Nếu
Nobunaga không tỏ ư muốn thống nhất thiên
hạ mạnh mẽ như vậy, th́ Nhật
Bản có thể đă trở thành một liên
bang giống như Đức, Italia hay Ấn Độ.
Người Nhật từ xưa vẫn có ư
thức mạnh mẽ coi đất nước
Nhật là một "thiên hạ", song cái ư
thức rằng "bởi đây là một nước
nên mỗi người đều phải phục
tùng một chính phủ, phải chấp nhận
một chính quyền chung" như người
Nhật ngày nay quan niệm về chế độ
tập quyền trung ương, th́ đă mất
đi mất rồi. Chủ trương như
vậy và bằng hành động của chính ḿnh
làm sống lại chế độ đó, chính là
Nobunaga với đường lối cải cách và
tập quyền của ông vậy. Nếu
Nobunaga sống thêm mười năm nữa, th́ nước
Nhật sẽ ra sao? Đó không phải chỉ là
một cái "nếu của lịch sử,"
mà thực ra nó làm cho người ta tưởng
tượng được xa hơn nhiều.
Bởi v́ Nobunaga đă vẽ ra được h́nh
ảnh nước Nhật sau khi ông thống
nhất được thiên hạ. Thời
kỳ chiến quốc có nhiều vơ tướng
tài ba. Takeda Shingen, Uesugi Kenshin, Mori Motonari đều
là những vơ tướng tài ba cả. Thế nhưng,
chỉ có hai người đă làm sáng tỏ
được vấn đề "sau khi
thống nhất được thiên hạ
rồi th́ trị nước ra làm sao?" Đó là
Oda Nobunaga và Tokugawa Yeyasu. Vơ tướng, lănh chúa
thời chiến quốc mà lại có cái nh́n
tổng quan như vậy th́ quả là hai người
này xuất sắc hơn cả. Trong
hai người, th́ Nobunaga, với tư tưởng
"rải vơ ra khắp thiên hạ," đă có
kế hoạch rơ rệt là thực hiện
quyền thống trị toàn quốc bời
tầng lớp vơ sĩ được thâu tóm
lại, với chính ông đứng ở thượng
đỉnh, để lập ra một vương
chế tuyệt đối, tức là một
chế độ quân chủ chuyên chế
tuyệt đối. Trước hết, ông
chủ trương rằng, tôn giáo chỉ nên
dừng lại ở trong tâm người ta. Nói cách
khác, đó là một h́nh thức phân tách chính
trị khỏi tôn giáo. V́ thế, chính Nobunaga
đă không trở thành một nhà
lănh đạo tôn giáo, đồng thời
ông cũng không can thiệp vào vấn đề tín
ngưỡng. Thứ nh́, ông nghĩ rằng vua
(thiên hoàng) và công khanh th́ chỉ nên chăm lo
mặt nghi lễ, văn hóa. C̣n quyền chính
trị thế tục th́ hoàn toàn phải do
tầng lớp vơ sĩ samurai nắm giữ. Hơn
thế nữa, ông không chấp nhận sự phân
quyền cho địa phương, mà chủ trương
lập ra một chính phủ tập quyền trung
ương, một vương quyền tuyệt
đối vậy. Nobunaga
không hề giấu giếm cái tư tưởng
như vậy. V́ thế, ông không cho kẻ địch
đă đầu hàng được quyền
tự trị. Về điểm này, th́ Hideyoshi
nối tiếp sự nghiệp của Nobunaga,
đă bị sa đọa nên đă nh́n nhận
Mori, Uesugi, chứ nếu là Nobunaga th́ ông đă tiêu
diệt những người này đi rồi. Đó
là v́ ông phải làm như thế mới xác
lập được vương quyền
tuyệt đối vậy. Viễn
tượng về một vương quyền
tuyệt đối đầu tiên trong lịch
sử thế giới Cái
đáng sợ của Nobunaga là ông không để
a tới cái lợi trước mắt, mà kiên tŕ
theo đuổi niềm tin của ḿnh. Khi phong
đất cho gia thần, ông cũng không cho
họ quyền tự trị. Chẳng hạn, khi
phong đất Etsuzen cho Shibata Katsuie, ông bảo
phải phục tùng mệnh lệnh của ông,
cấm không cho nằm ngủ duỗi chân về
phía ông[12]. Không
những thế, Nobunaga h́nh như đă có
chủ ư trong việc phân công các gia thần
của ḿnh vào công tác trấn giữ các địa
phương. Chẳng hạn, ông phong cho Hideyoshi làm
Hashiba Etsuzen no Kami (thái thú châu Etsuzen, nay là phía
bắc đảo Kyushu), Akechi Mitsuhide làm Koreto Hyuga
no Kami (thái thú châu Hyuga, nay là tỉnh Miyazaki, phía
nam đảo Kyushu). Lại nữa, Niwa Nagahide
được ông phong cho họ Koreto và cho
trấn giữ miền tây. Đại để, ông
để cho ba thủ hạ thân tín này cai
quản đảo Kyushu. Một mặt, ông để
cho Shibata Katsuie trấn giữ hai châu Dewa và Etsugo,
Takigawa Kazumasu th́ cho giữ châu Kita-Kanto, rồi
Tokugawa Yeyasu th́ h́nh như định giao cho
giữ châu Mutsu rộng 1 triệu 600 ngàn hộc.
Nghĩa là ông đă phân công cho bọn Tokugawa
trấn giữ toàn quốc, và định thâu tóm
quyền quản lư trực tiếp về trung
ương. Ông đă có ư định rơ rệt
như vậy. Đồng
thời, Nobunaga tuy xuất thân từ vùng Owari, nhưng
đă đóng đô ở thành Gifu, rồi
lại đổi sang ở thành Azuchi, và nếu c̣n
sống, hẳn ông đă đổi sang ở thành
Ozaka. Các vơ tướng lănh chúa thời chiến
quốc thường bám chặt lấy nơi quê
quán. Chẳng hạn, Takeda Shingen cố thủ
Kaitsutsujigasaki, Uesugi Kenshin không rời khỏi
Kasugayama. Trong khi đó, Nobunaga lần lần đổi
sang ở nơi tiện lợi hơn. Bởi v́
ông coi việc thực hiện một vương
chế tuyệt đối trên toàn quốc
Nhật Bản là mục tiêu của ḿnh, nên không
câu nệ tính địa phương của nơi
đóng bản doanh. Thời
ấy, vua Tây Ban Nha Felippe II và nữ hoàng Anh
quốc Elizabeth I cũng đang xây dựng vương
chế tuyệt đối nhưng không có tính cách
triệt để như thể chế Nobunaga
định lập ra. Phải chờ đến
khoảng một trăm năm sau một vương
chế như vậy mới thành h́nh dưới
thời vua Pháp Louis XIV. Nếu Nobunaga thực
hiện xong việc "rải vơ ra khắp thiên
hạ," th́ ở Nhật Bản đă
xuất hiện một nhà nước quân chủ
chuyên chế tuyệt đối đầu tiên trên
thế giới vậy. Những
người như thế nào đă sống trên
thế giới thời đó? Thế giới lúc
đó đă có nhiều người đáng chú
ư. Nga hoàng Ivan IV, người đă cải cách nước
Nga, sinh trước Nobunaga bốn
năm và mất sau Nobunaga hai năm. Vua Felippe II, người
đă lập ra hạm đi vô địch
của Tây Ban Nha, th́ sinh trước Nobunaga
bảy năm và sống thêm 16 năm nữa sau
khi Nobunaga đă mất. Nữ hoàng Anh Elizabeth I hơn
Nobunaga một
tuổi song sau này mới hoạt động
mạnh. Họ đều
là người cùng thời với Nobunaga. Có
thể nói Nobunaga đă có ư thức thống
nhất Nhật Bản sớm sủa không thua kém
ǵ các bậc đế vương châu Âu
vậy. Bởi
thế, nếu Nobunaga sống thêm 10 năm
nữa, th́ Nhật Bản hẳn đă trở thành
một nước có nền quân chủ chuyên
chế tuyệt đối, đă có chính sách
trọng thương[13]
và như vậy đă phát triển kinh tế,
kỹ thuật. Thế nhưng sau khi Nobunaga
mất đi, th́ Nhật Bản có thể đă
bị ngoại bang xâm lược. Đối
lại, Tokugawa Yeyasu đă áp dụng chính sách
bế môn tỏa cảng, giữ cho Nhật
Bản khỏi bị ngoại xâm. Song, ông đă
làm cho Nhật Bản trở thành một nước
không có ǵ hấp dẫn cả. Nếu Oda Nobunaga
sống, th́ chắc chắn ông đă làm Nhật
Bản thành một nước sinh động hơn,
náo nhiệt hơn. Lịch sử Nhật Bản
hẳn đă đổi khác đi nhiều.
Với ư nghĩa này, Nobunaga c̣n có thể coi là
một phần "lịch sử Nhật Bản
đă bị phủ nhận". Tuy
nhiên, Nobunaga là người đầu tiên tỏ
rơ ư chí thống nhất và lập ra một chính
thể tập quyền trung ương ở
Nhật Bản, sau khi nước này đă bị
phân hóa kể từ thời trung cổ. Đồng
thời, ông đă để lại "thần
thoại" chứng minh rằng nước
Nhật có thể cải cách được. V́
vậy, mặc dù đường lối
"rải vơ ra khắp thiên hạ," của
ông đă chỉ mới hoàn thành nửa
chừng, song những ǵ ông để lại cho
Nhật Bản quả là lớn lao.
[1] Thiên hoang là chỉ
lúc thiên hạ c̣n hỗn độn chưa
mở mang. Phá thiên hoang là chỉ việc làm có
tính cách khai thiên lập địa, chưa
từng có.
[2] Thời chiến quốc Nhật Bản là kể từ loạn Onin (1467-1477) cho tới lúc Oda Nobunaga đứng ra thống nhất thiên hạ (1582). Khác với thời chiến quốc Trung Hoa (403-221 trước công nguyên). [3]
Francisco Xavier (1506-1552) là giáo sĩ Cơ đốc
thuộc ḍng Tên (Jésuites) đầu tiên đặt
chân lên đất Nhật. Ông là người
đầu tiên đă dùng mẫu tự La-tinh
phiên âm tiếng Nhật. Tương truyền
rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes, cũng
thuộc ḍng Tên, đă tham khảo công tŕnh
của Xavier trong việc hoàn thành phương
pháp viết tiếng Việt bằng mẫu
tự La-tinh năm 1651. Cho nên, chỉ nêu tên
Alexandre de Rhodes trong sự nghiệp La-tinh hóa
Việt ngữ là thiếu sót!
[4] Chẳng hạn
Christopher Columbus đă t́m ra châu Mỹ vào
cuối thế kỷ thứ XV (1492). Ở
Việt Nam, nhân vật này hay được
gọi là Christophe Colombe, tức là đọc
theo tiếng Pháp. Thật ra, ông là người
Italia, nên đáng lẽ phải gọi ông
bằng tên tiếng Italia, tức là Cristoforo
Colombo. Cách đọc ở đây, Christopher
Columbus, là theo tiếng Mỹ (Anh).
[5] Shosoin là một
viện bảo tàng lập ra ở Nara vào
thế kỷ thứ VIII để tàng trữ
hơn ch ín ngàn bảo vật của thiên hoàng
Shomu (701-756).
[6] Trận đánh quyết định giữa hai phe, một bên là Ishida Mitsunari và một bên là Tokugawa Yeyasu. Tất cả các lănh chúa thời đó đều đă về phe với một trong hai vơ tướng này. Phe Tokugawa đă thắng trận và do đó Tokugawa Yeyasu đă lên làm chúa lập ra mạc phủ Tokugawa kéo dài gần 300 năm ở Edo (Tokyo ngày nay).
[7] Cửa quan là nơi
kiểm soát người đi lại và hàng hóa
lưu thông, vừa có trách nhiệm về
trị an vừa để thâu thuế
đường và thuế chợ.
[8] Miền "đàng trên" là dịch chữ Kamigata. Kamigata là tên gọi miền đất gồm có kinh đô Kyoto và những châu quận quanh đó, tương tự như xưa kia ở VN ta gọi "đàng trong" là vùng đất quanh nơi chúa Nguyễn cai quản.
[9] Thiên hạ bố vơ,
nghĩa là "rải vơ ra khắp thiên
hạ," tức là rải nền chính
trị vơ gia (samurai) ra khắp thiên hạ. Đây
là chủ trương chính trị của
Nobunaga. Ông đă lấy bốn chữ này
khắc vào dấu, ấn cũng như in vào
cờ, xí của quân đội của ông.
[10] Thời chiến
quốc Nhật Bản, "trà đạo"
phần lớn là do các nhà sư truyền bá.
Sư Nhật Bản lấy vợ được.
[11] Miyamoto Musashi thường được coi là kiếm khách vơ nghệ siêu quần, binh pháp tinh thông, có một không hai trong lịch sử samurai Nhật Bản.
[12] Người
Nhật khi tôn kính ai, chịu ơn ai, th́ hay
tỏ thái độ
đó bằng cách không duỗi chân về phía
người ấy trong khi nằm ngủ.
[13] Chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) là chủ trương kinh tế coi trọng thương mại của các nước châu Âu từ khoảng giữa thế kỷ XV sang tới giữa thế kỷ XVIII. Chủ trương này là nhà nước bảo hộ và can thiệp vào mậu dịch với mục đích làm giầu bằng cán cân mậu dịch có lợi cho ḿnh.
®
"Khi phát hành lại thông tin
từ trang này cần phải có sự đồng
ư của dịch giả
..........
|