TIẾT E: BÚT HIỆU
1. Định Nghĩa Bút Hiệu: Bút
hiệu hay c̣n gọi là bút danh là tên của
các văn nghệ sĩ, kư giả chọn
để thay cho tên chánh, hoặc cho đi kèm
với tên chánh để xác nhận tác
quyền trên những tác phẩm văn chương,
nghệ thuật, đồng thời để
biểu lộ một mục đích hay lư tưởng
nào đó.
2. Nguồn Gốc Bút Hiệu: Bút
hiệu xuất hiện đầu tiên
tại Pháp. Vào thời Trung Cổ, công dân Pháp
bị buộc phải ṭng quân, trốn tránh
sẽ bị tử h́nh. Do vậy, những người
trốn lính phải lấy tên khác để
che dấu tung tích. Tên đó Pháp ngữ
gọi là “nom de guerre”, nghĩa là tên
chiến tranh. Cũng vào thời Trung Cổ, dân
Pháp không có quyền tự do ngôn luận. Tác
phẩm nào xúc phạm tới giới
chức chính quyền hay tầng lớp giáo sĩ
sẽ bị trừng phạt. Do vậy, các văn
sĩ bắt chước kiểu tên “nom de
guerre”, đặt ra “nom de plume”, tức là
bút hiệu để che dấu tung tích, lư
lịch của ḿnh trong sinh hoạt văn chương
chữ nghĩa. Từ Pháp, bút hiệu lan ra
khắp thế giới và lẽ dĩ nhiên có
cả Việt Nam. Ngày nay, người Hoa
Kỳ vẫn mượn từ ngữ “nom
de plume”của Pháp để chỉ bút
hiệu.
3. H́nh Thức Bút Hiệu: Bút hiệu
xuất hiện tại Việt Nam vào
những năm đầu của thế
kỷ hai mươi, đồng thời
với sự h́nh thành của nền quốc
văn mới, chịu ảnh hưởng văn
hóa tây phương. Về phương
diện h́nh thức, nếu tên hiệu thường
gồm hai chữ th́ bút hiệu có thể là:
Một số mẫu tự ghép lại: Nhà thơ
TTKh, TCHYA. VIP. KK.
Một từ: Hoạ sĩ Tuưt, Choé, Mơ, Mít.
Hai từ: Nhà thơ Xuân Diệu, Thế
Lữ.
Ba từ: Thi sĩ Hàn Mặc Tử.
Đủ thành phần tên: Thi sĩ Vũ
Đ́nh Liên, Bàng Bá Lân.
Một ngoại ngữ: Họa sĩ Etcetera,
thi sĩ Jean Leiba.
Căn cứ vào nội dung các bút hiệu, ta
thấy văn nghệ sĩ áp dụng hai phương
pháp sau đây để đặt bút
hiệu:
4. Phương Pháp Đặt Bút Hiệu
Của Các Nhà Nho: Vào khoảng những năm
đầu của thế kỷ hai mươi,
các văn nghệ sĩ, kư giả c̣n là các
nhà nho, vốn liếng Hán học c̣n
nhiều, nên nguyên tắc đặt bút
hiệu của các cụ lúc này vẫn theo các
nguyên tắc đặt tên hiệu. Xin nêu các
ví dụ sau:
a. Bút hiệu đặt theo một câu văn
Tàu: Cụ Trần Trọng Kim (1882-1953), tác
giả hai bộ sách rất giá trị là
Việt Nam Sử Lược và Nho Giáo, có bút
hiệu là Lệ Thần. Cụ lấy tên này
v́ tên cụ là Kim, nghĩa là vàng. Tục
ngữ Trung Quốc có câu: Ngọc ẩn Côn
Sơn, kim sanh Lệ Thủy, nghĩa là
ngọc ẩn ở núi Côn, vàng sinh ra ở sông
Lệ. Cụ Kim chọn bút hiệu Lệ
Thần v́ muốn thần phục sông
Lệ.
b. Bút hiệu đặt theo nguyên tắc tên
tự: Theo nguyên tắc này, tên chánh và bút
hiệu có ư nghĩa gần giống nhau. Ví
dụ nhà văn Đào Trinh Nhất (1900-1951)
tự là Quán Chi, bút hiệu là Bất
Nhị. Nhất nghĩa là một, Bất
Nhị nghĩa là không phải là hai. C̣n tên
tự Quán Chi, Quán và Nhất đều có
nghĩa hạng nhất, đứng đầu
(Ví dụ quán quân). Nhà văn Hồ Văn
Trung (1885-1958), tác giả hàng trăm cuốn
tiểu thuyết, có bút hiệu là Biểu Chánh.
Chữ Trung và Chánh đều có nghĩa là
ngay thẳng.
c. Bút hiệu đặt theo tên một nhân
vật lịch sử: Cụ Lê Dư,
một tay bút chiến cự phách của làng
báo Việt Nam buổi ban đầu, lấy bút
hiệu là Sở Cuồng. Cụ lấy bút
hiệu này v́ tên cụ giống tên nhà
triết học thời Chiến Quốc là
Tiệp Dư, người nước Sở,
có tên hiệu là Sở Cuồng. Học
giả Phạm Quỳnh đă giải thích v́
sao ông chọn bút hiệu Thiếu Hoa
Đường. Ông viết:
Cụ Phạm Quư Thích hiệu Lập Trai,
biệt hiệu Hoa Đường. V́ chính
cụ là người làng Lương Ngọc
tôi, trước là làng Lương Đường,
mà tên về đời Lê là Hoa Đường.
Tôi mộ cái tài học danh tiết một
bậc tiền bối, lại vừa là
vị chân nho ôn ḥa thuần túy cũng
lạm lấy tên Hoa Đường làm
biệt hiệu. Tên cụ là Lăo Hoa Đường
mà cho ḿnh là Thiếu Hoa Đường.
5. Phương Pháp Đặt Bút Hiệu
Của Phái Tân Học: Đến
khoảng năm 1930, khi văn chương
quốc ngữ lấn lướt hẳn văn
chương Hán Nôm, th́ các văn nghệ sĩ
thời này chọn cho ḿnh những bút
hiệu có nội dung phóng khoáng hơn. Các bút
hiệu không c̣n lệ thuộc vào những
điển tích, câu văn trong cổ thư Tàu,
hay những bút hiệu phải có những
chữ như Trai, Am, Hiên, Đường, Xuyên,
Sơn, Phu, Phụ như trước nữa,
mà đặt bút hiệu theo nhu cầu
mục đích của ḿnh. Sau đây là các
mục đích của các văn thi sĩ, kư
giả khi đặt bút hiệu:
a. Bút hiệu để che dấu tên
thật. V́ một lư do nào đó, như e
ngại bị phê b́nh, sợ bị kiện
tụng, các văn nghệ sĩ chọn
một bút hiệu để che dấu tên
thật. Trường hợp này có thể phân
làm hai loại: che dấu hẳn và che dấu
một phần.
Che dấu hẳn là lấy bút hiệu để
người khác không biết ai là tác
giả. Đại đa số các bút
hiệu của người Việt Nam
thuộc loại này. Một thí dụ điển
h́nh là bút hiệu T.T. Kh, tác giả bài thơ
nổI tiếng Hai Sắc Hoa Ti Gôn được
đăng ở tập san Tiểu Thuyết
Thứ Bảy, đă làm xôn xao dư luận
xóm nhà văn vào năm 1937. Cho tới nay, không
người nào biết T.T. Kh là ai. Báo chí
một thời đă viết nhiều bài t́m
hiểu về T.T. Kh, nhưng vẫn chưa ai
biết tên thật của thi sĩ này là ǵ.
Nhà phê b́nh thi ca Hoài Thanh, Hoài Chân đă trách
khéo T.T. Kh rằng: Liệu rồi đây, người
có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn
riêng cho đến khi về chín suối ?
Tác giả truyện Kho Vàng Sầm Sơn
lấy bút hiệu là TCHYA. Bút hiệu này gây
thắc mắc cho nhiều người, có người
giải thích chữ tắt đó là Tôi
Chẳng Yêu Ai, hoặc Tôi Chẳng Hề Yêu
Ai. Cuối cùng, nhà văn Đái Đức
Tuấn giải thích TCHYA là tiếng viết
tắt của câu Tôi Chỉ Yêu Angèle.
Trong lối che dấu tung tích, các nhà văn c̣n
dùng cách thức đặt hẳn một tên
khác, cũng có tên họ, tên đệm và tên
chính, nhưng đó không phải là tên
thực của tác giả. Ví dụ nhà thơ
Chu Vương Miện có tên thật là
Nguyễn Văn Thưởng. Nhà thơ Cung
Trầm Tưởng tên thật là Cung Thúc
Cần. Nhà thơ Du Tử Lê có tên thật là
Lê Cự Phách. Dùng bút hiệu loại này, các
văn nghệ sĩ muốn độc
giả nghĩ đó là tên thật v́ một
bài viết, một tác phẩm được
đánh giá là đứng đắn, nghiêm túc
khi chính tác giả dùng tên thật để
xác nhận bản quyền. Che dấu một
phần là phương pháp mà ta có thể
đoán ra tên thật nhờ yếu tố có
trong bút hiệu. Các văn thi sĩ áp
dụng bốn cách sau đây để che
dấu một phần tông tích:
Thứ nhất, lấy tên đệm và tên
chính làm bút hiệu. Nhà văn Nguyễn Lan
Khai lấy bút hiệu là Lan Khai. Nhà thơ
Phạm Huy Thông (1918-?) lấy bút hiệu là
Huy Thông. Nhiều nhà văn áp dụng nguyên
tắc này để chọn tên hiệu.
Thứ hai, lấy tên đệm và tên chính
rồi nói lái. Nhà văn Nguyễn Thứ
Lễ(1907-?) nói lái ra là Thế Lữ.
Thứ ba, ghép vần tên họ với
vần tên chính. Nhà văn Ngô Văn Phát ghép
vần chữ Ngô và chữ Phát thành Tố
Phang. Nhà văn Trần Khánh Giư (1896-1947)
đảo lộn hai từ Khánh Giư thành
Khái Hưng để làm bút hiệu.
Thứ tư, lấy tên chính viết ra Hán
tự, rồi lấy bộ chữ tạo thành
tên chính đó làm bút hiệu. Ví dụ
học giả Phạm Quỳnh (1892-1945)
lấy bút hiệu là Hồng Nhân. Chữ
Quỳnh nếu viết ra Hán tự có bộ
Ngọc nghĩa là hồng ngọc, nên cụ
chọn bút hiệu Hồng Nhân. Hơn
nữa, cụ chọn bộ Ngọc v́
một lư do khác nữa là nguyên quán của
cụ ở làng Ngọc Cục, Hải Dương.
Chỉ có các vị uyên thâm nho học
mới lấy bút hiệu kiểu cách này.
b. Bút hiệu chỉ nơi sinh quán: Người
Việt có tâm lư rất gắn bó và
quyến luyến nơi sinh quán. Dù cư
ngụ ở đâu, họ cũng vẫn hoài
tưởng quê hương. Tâm lư này
được thể hiện qua nhiều
bộ môn nghệ thuật như âm nhạc,
hội họa, văn chương. Đối
với tính danh học, tâm lư này thể
hiện qua việc lấy địa danh quê
quán làm bút hiệu. Xin đan cử một vài
ví dụ:
Nhà văn Phạm Quỳnh (1892-1945), có các bút
hiệu khác nhau là Lương Ngọc,
Hồng Nhân, Thượng Chi. Ông lấy bút
hiệu Lương Ngọc v́ nguyên quán
của ông ở làng Lương Ngọc,
tổng Ngọc Cục, Huyện B́nh Giang,
tỉnh Hải Dương. Ông Nguyễn Đức
Nhuận (1900-?), chủ nhiệm nhật báo Sàig̣n
Mới, có bút hiệu là Bút Trà v́ ông sinh
ở Quảng Ngăi nơi có núi Bút Sơn và
sông Trà Khúc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Trí
lần lượt lấy các bút hiệu Minh
Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn
Mạc Tử và sau cùng là Hàn Mặc Tử.
Riêng bút hiệu Lệ Thanh là do hai chữ
đầu của sinh quán Lệ Mỹ và chánh
quán Thanh Tân ghép lại. Nhà văn Trần
Trung Lương, tác giả của nhiều tác
phẩm nói về đời sống người
tỵ nạn Việt Nam ở Canada, lấy
hiệu là Trà Lũ v́ tổ tiên ông ở làng
Trà Lũ, Nam Định, trước khi di cư
sang Phát Diệm để tránh cuộc
bắt đạo của Tổng đốc
Trịnh Quang Khanh.
c. Bút hiệu có ư nghĩa hay, có âm thanh hài
ḥa. Hầu hết các văn nghệ sĩ
Việt Nam chọn tên hiệu theo tiêu
chuẩn này. Các văn nghệ sĩ thường
chọn các từ ngữ Hán Việt, để
vừa có ư nghĩa hay, vừa có âm thanh hài
ḥa. Ví dụ: Thanh Lăng, Nguyên Sa, Thanh Tịnh,
Hải Linh, Nhất Linh, Hàn Mặc Tử, Sĩ
Phú, Quỳnh Giao, Mai Hương, v.v…
d. Bút hiệu để diễn tả hoàn
cảnh bản thân. Trong văn chương,
không những ta thấy có văn chương
tự trào, mà c̣n thấy các văn nghệ sĩ
chọn bút hiệu để diễn tả
hoàn cảnh bản thân. Ông Vũ Hối, nhà
danh họa Việt Nam, được Ṭa
Bạch Ốc mời vẽ chân dung Tổng
Thống John F. Kennedy, kể chuyện về bút
hiệu của ḿnh:
Khi đi tù, tôi bị hành hạ trong bao nhiêu
năm. Chúng đánh tôi hư một con
mắt, cùm tôi hư một chân. Do đó khi
ra tù tôi chọn bút hiệu là Vũ Đát
Di. Đố anh bút hiệu này có nghĩa là
ǵ? Biết ông là người hay chữ và hóm
hỉnh nên tôi đoán ra ngay là vừa đi
vừa dắt chứ ǵ? Ông chịu quá bèn
không đố nữa mà kể cho tôi nghe
những bút hiệu khác của ông. Nhiều
lắm. Chẳng hạn Vũ Sơn Trạch
là Vũ sạch trơn, v́ ông ta ra tù th́ 2 bàn
tay trắng. Nguyễn Y Vân là vẫn y nguyên,
ư nói thân xác hao gầy nhưng ḷng ông
vẫn như xưa. Vũ Vi Vân là vẫn vi
vu, ông vẫn đi đây đi đó như
gió. Và bút hiệu cuối cùng, Hồng Khôi,
th́ ông không đùa giỡn với chữ nghĩa
nữa. Bút hiệu này vừa nói lên cái tâm
Phật của ông, vừa để tưởng
nhớ hai người anh ruột đă
bị sát hại. Anh Hồng và anh Khôi.
Hồng Khôi là Hồi Không. Cuộc đời
này rồi ra c̣n ǵ đâu. Không cả. Thâm
thúy quá chứ .
e. Bút hiệu phù hợp với nội dung
bài viết hay tác phẩm: Ngoài bút
hiệu chính, các văn nghệ sĩ c̣n có
thể có nhiều bút hiệu khác, tùy theo
nội dung tác phẩm. Khi viết loại văn
chương có mục đích đả phá
hay chỉ trích, nhà văn thường
chọn từ ngữ gợi ư không tốt
đẹp làm bút hiệu. Nhà văn
Nguyễn Tường Long trong nhóm Tự
Lực Văn Đoàn có hai bút hiệu:
Tứ Ly và Hoàng Đạo. Khi viết cho
tờ Phong Hóa, ông chuyên dùng thứ văn chương
châm biếm để đả phá hủ
tục mê tín dị đoan, bói toán, bốc
phệ nên chọn bút hiệu là Tứ Ly.
Theo bói toán, Tứ Ly là giờ xấu
nhất trong ngày. Đến khi tờ Phong Hóa
đóng cửa, ông sang viết cho tờ Ngày
Nay, chuyên về văn nghệ, th́ lại
lấy bút hiệu là Hoàng Đạo. Hoàng
Đạo trong tử vi tướng số là
giờ tốt nhất trong ngày. Bút hiệu
sau của nhà văn Nguyễn Tường Long
đă đi vào lịch sử văn học
Việt Nam. Học giả Nguyễn Văn Toán,
bút hiệu Toan Ánh, tác giả nhiều bộ
sách phong tục Việt Nam, đă cho cá nhân
chúng tôi biết khi phê b́nh hay bút chiến
một vấn đề ǵ, ông lấy bút
hiệu là Ngạc Nhân. Ông giải thích:
Ngạc trong Hán tự nghĩa là con cá
sấu. H́nh ảnh cá sấu gợi lên ư nghĩa
tấn công.
Khi vẽ hay viết về các đề tài có
tính cách nửa đùa nửa thực,
diễu cợt, châm biếm, các nhà văn,
họa sĩ thường chọn các từ
ngữ hài hước châm biếm làm bút
hiệu: Xin liệt kê các bút hiệu sau đây
đă thấy trong làng báo Việt Nam trong
nửa thế kỷ qua để làm ví
dụ: Thầy G̣n, Thiên Hổ, Thiên Cẩu,
Tú Kếu, Tú Gàn, Tú Rua, Đốc Gàn, Đồ
Dịch, Đạo Chích, Kư C̣m, Đào Nương,
Lăo Móc, Bút Thép, VIP.KK. Các hoạ sĩ vẽ
tranh hí họa cho báo chí như: Tuưt, Etcetera,
Chóe, Mơ, Mít, Hĩm.
f. Bút hiệu đặt theo trào lưu văn
hóa mới. Khi xă hội Việt Nam c̣n
chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa
Trung Quốc, các tên hiệu đều là các
từ Hán Việt. Đến khi văn hóa tây
phương tràn vào Việt Nam, người
ta thấy ngay một chuyển biến
mới. Đầu tiên, các văn nghệ sĩ
thay v́ lấy tên hiệu, họ lấy bút
hiệu. Sau đó, thêm một bước
nữa là có vị lấy tên hiệu
bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh. Ví dụ
thi sĩ thời tiền chiến Lê Văn Bái
lấy bút hiệu là J. Leiba. Nhà báo Đinh
Từ Thức viết cho tờ Độc
Lập vào những năm trước 1975
lấy bút hiệu là VIP.KK. Chữ VIP là
tiếng viết tắt của Very Important
Person, nghĩa là nhân vật rất quan
trọng.
Ngoài ra, một biến chuyển quan trọng
chưa từng thấy trong lịch sử văn
chương Việt Nam là các văn nghệ sĩ
chịu ảnh hưởng văn hóa tây phương,
lấy tên thật của ḿnh làm bút
hiệu. Khuynh hướng này bắt đầu
xuất hiện vào khoảng năm 1920 và càng
ngày càng phổ biến v́ các tác giả không
mấy sợ tiếng khen chê, lại muốn
tên tuổi của ḿnh được phổ
biến càng nhiều càng tốt. Ngày nay,
nhiều tác giả không ngần ngại khai báo
hết lư lịch cá nhân như sinh năm nào,
ở đâu, làm nghề ǵ, học vấn ra
sao, đă xuất bản bao nhiêu tác phẩm
v.v… Và nhiều vị c̣n in h́nh của ḿnh
trên b́a sau tác phẩm. Tinh thần này trái
hẳn với tinh thần của các cụ
trong nền văn chương Hán Nôm xưa là
lấy tên hiệu để ghi quyền tác
giả như: Ức Trai Thi Tập, Tiều
Ẩn Thi Tập, Giới Hiên Thi Tập v.v…
Ngày mai: Nghệ Danh |