|
Câu
Chuyện Thầy Lang
Bác
sĩ Nguyễn Ý Đức
Bệnh
Tiểu Đường
Tôi năm
nay 52 tuổi, mới đây đi khám bác sĩ
thì thấy đường trong máu lên cao. Bây
giờ bác sĩ đang cho tôi ăn kiêng rồi
thử máu lại. Xin cho biết thêm về
bệnh này. Ông Lân.
Theo như
ông nói thì ông bị một trong hai loại
tiểu đường chính là loại xuất
hiện ở người lớn tuổi. Còn
loại kia thì có sớm hơn, thường
là vào tuổi thiếu niên.
Loại nào chăng nữa thì vấn đề
chính vẫn là đường trong máu không
được tồn trữ trong tế bào
để tạo ra năng lượng mà
lại lưu thông trong máu cao hơn thường
lệ và gây nhiều hậu quả không
tốt, đôi khi nguy hiểm chết người.
Nguyên
lý
Bệnh
tiểu đường đã được các
y sĩ Ấn Độ tả từ trên 2000 năm
và được biết tới từ thời
cổ Ai Cập. Khi đó, các y sĩ thấy
kiến bu vào nước tiểu của
nhiều người bệnh vì có chất
ngọt nên họ gọi là nước tiểu
mật ong.
Bình thường, tinh bột (carbohydrates) trong
thực phẩm tiêu thụ vào tới ruột
sẽ chuyển thành đường glucose
rồi đưa sang máu.
Insulin, một kích thích tố do tụy tạng
tiết ra, điều hòa giữ glucose ở
mức độ trung bình, số còn lại thì
được đưa vào tồn trữ
ở cơ thịt, gan để dùng dần. Khi
vì lý do nào đó mà cơ thể không có đủ
insulin hay insulin không hiệu lực, glucose không vào
được tế bào, sẽ tràn ngập
trong máu và một số không dùng tới sẽ
được tiểu ra ngoài.
Cho nên tiểu đường là khó khăn trong
việc chuyển hóa của chất carbohydrates thành
năng lượng cho các chức năng của
cơ thể.
Trung bình đường trong máu thay đổi
từ 50 tới 115 mg/100 phân khối, cao khi vượt
quá 140mg/100cc.
Đường lên cao sau khi ăn và càng xa
bữa ăn thì đường càng thấp
xuống, thí dụ như vào buổi sáng trước
giờ ăn điểm tâm. Nếu đo
nhiều lần mỗi buổi sáng mà đều
cao thì là mắc bệnh.
Phân
loại
Y
học chia bệnh tiểu đường ra làm
hai loại: Loại-I còn được gọi là
Tiểu-đường-phụ-thuộc-insulin và
Loại-II hoặcTiểu-đường-không-phụ-thuộc-insulin.
Bệnh tiểu đường Loại I có
thể xẩy ra ở bất cứ tuổi nào
nhưng đa số là ở tuổi thanh
thiếu niên hoặc trước 30 tuổi.
Tỷ lệ bệnh 10%
Trong loại I, tế bào sản xuất ra
insulin của tụy tạng ngưng hoặc
chỉ tiết ra rất ít kích thích tố
này. Muốn giữ đường trong máu
ở mức trung bình thì phải chích thêm
insulin cho nên bệnh được gọi là
tiểu đường phụ thuộc vào
insulin.
Mặc dù đa số trẻ em bị loại I,
nhưng một số em cũng có thể ở
loại II và có thể chữa bằng chế
độ dinh dưỡng, vận động cơ
thể và giảm cân nếu các em mập. Xin
nhắc là béo mập không là nguy cơ gây ra
tiểu đường loại I.
Loại này được khoa học giải thích
là do ảnh hưởng của gene di truyền
với sự hủy hoại các tế bào
tiết ra insulin của tụy tạng. Ngoài ra, vài
loại siêu vi trùng như trong các bệnh ban
đào (rubella), quai bị (mump), coxsackie B cũng là
nguy cơ gây bệnh.
Loại II - Trường hợp của ông, năm
nay 52 tuổi mới tình cờ khám phá ra là
loại tiểu đường không phụ
thuộc vào insulin, thường phát hiện
ở lớp người trưởng thành trên
30 tuổi.90% tiểu dường thuộc
loại 2.
Bệnh thường thấy ở người
quá mập và thường xẩy ra khi đột
nhiên lên kí. Người bệnh không
tạo ra đủ insulin cho nhu cầu hoặc do
insulin có nhưng không hữu hiệu. Cũng nên
lưu ý là, không phải những ai bị
tiểu đường đều mập nhưng
mà sự mập có khả năng đưa
tới tiểu đường. Di truyền cũng
có trách nhiệm gây ra loại II này vì 90%
cặp song sanh đều bị bệnh.
Vì không phụ thuộc vào insulin nên
loại II có thể kiểm soát được
bằng tiết chế ăn uống và vận
đông cơ thể.
Nói chung thì tiểu đường thường
xẩy ra cho nhiều người trong gia đình,
mà bằng cách nào thì chưa có giải thích.
Cho nên nếu cha mẹ anh chị em bị
tiểu đường thì mình cũng có nguy cơ
bị bệnh.
Ngoài ra, bệnh tiểu đường còn
thấy ở người nghiện rượu mà
tụy tạng bị viêm kinh niên; trong các
bệnh của tuyến nội tiết như
Hội chứng Cushing, bệnh to cực
(acromegaly), bệnh ngoài da (acanthosis nigricans)
với vết mầu đậm ở cổ, nách,
háng.
Triệu
chứng
Triệu
chứng chính của bệnh tiểu đường
gồm có: uống nước nhiều, đi
tiểu tiện nhiều lần nhiều nước
và ăn nhiều.
Khi cơ thể không sử dụng được
đường, đường sẽ tích
tụ trong máu. Trong tình trạng bình thường,
thận giữ đường lại chứ không
thải ra ngoài; nhưng khi đường lên quá
cao thì thận giúp hạ thấp bằng cách
đẩy bớt ra ngoài một ít. Đường
máu cao sẽ hút nước của tế bào. Nước
theo đường ra ngoài, làm ta đi tiểu
nhiều; mà tiểu nhiều thì khát nước
nên phải uống nhiều nước.
Ở loại I, người bệnh hay
xuống cân vì cơ thể phải chuyển hóa
mỡ và đạm dự trữ trong tế bào
ra năng lượng. Ở loại II thì người
bệnh lại lên ký vì ăn nhiều.
Ngoài ra, bệnh nhân hay mệt mỏi, buồn nôn,
mắt mờ, dễ nhiễm độc
đường tiểu tiện, da, và miệng.
Nữ giới hay bị bệnh nấm ở cơ
quan sinh dục.
Cao đường trong máu lâu năm sẽ gây
ra nhiều tổn thương cho thận,
mắt, thần kinh, tim mạch.
Vì đường trong máu cao nên cơ thể
lấy nước từ tế bào qua để
làm loãng đường, thận phải làm
việc nhiều hơn để bài tiết nước
và đường thành ra suy yếu.
Khi mạch máu lớn bị ảnh hưởng
thì tim não bị tổn thương có thể gây
ra nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
Máu kém lưu thông làm vết thương lâu lành,
đôi khi đưa tới khô héo ngón chân,
phải cắt bỏ.
Đường cao cũng có ảnh hưởng
tới giây thần kinh ngoại vi nhất là
ở dưới bàn chân khiến bệnh nhân
cảm thấy tê hoặc châm nhói như
kiến đốt.
Bệnh Tiểu đường gây ra nhiều
biến chứng trầm trọng cho cơ
thể Coi bài riêng
Điều
trị Tiểu Đường
Về
điều trị thì tùy theo loại bệnh, nhưng
căn bản vẫn là làm sao giữ mức
đường trong máu càng gần với bình
thường càng tốt, bằng thuốc viên
hoặc bằng insulin chích.
Dù thuộc loại nào, thuốc cũng cần
được dùng lâu dài, nhất là đối
với bệnh phụ thuộc insulin. Bệnh nhân
cần được bác sĩ đều đặn
theo dõi phân lượng, tác dụng phụ
của thuốc cũng như tiến triển
của bệnh.
Vấn đề cẩn thận ăn uống
rất quan trọng đối với bệnh nhân
béo mập, vừa để giữ mức
đường bình thường, vừa
giảm kí.
Vận động cơ thể là điều
cần làm vì sự vận động đốt
bớt đường và góp phần giảm kí
ở bệnh nhân mập.
Bệnh nhân cũng cần hiểu rõ các chi
tiết về bệnh tật, về cách dùng
thuốc, về sự ăn uống, tập
luyện cơ thể.
Ngoài ra, Y học cổ truyền và kinh nghiệm
dân gian mình cũng dùng nhiều loại Cây
Con để kiểm soát đường
huyết và dường như có vài hiệu
quả. Chẳng hạn cây Sinh Địa,
cải xoong, lá chua me, lộc nhung...
Sống thích nghi với bệnh
Tiểu đường là bệnh kinh niên. Tùy
theo tuổi bị bệnh và tùy theo nặng nhe,ï
tiểu đường sẽ đưa đến
một số thay đổi trong nếp sống
mà người bệnh phải thích nghi. Bệnh
tiểu đường đã được
xếp vào loại tật nguyền trong Americans
with Disabilities Act, cần được giúp đỡ.
Như vậy không có nghĩa là người
bệnh không sống bình thường được.
Nhiều lực sĩ thể thao, nhiều chuyên
gia bị tiểu đường mà vẫn có
đời sống như mọi người,
miễn là họ kiểm soát được
đường trong máu, đừng để
biến chứng xẩy ra.
Sau đây là một số điều cần làm:
1-
Giữ mức độ đường trong máu
gần trung bình qua cân bằng dinh dưỡng, năng
lượng tiêu thụ, vận động cơ
thể và dùng thuốc như bác sĩ dặn.
2-
Đo đường ở máu mỗi ngày theo
lịch trình nhất là trước khi đi
ngủ, vì ban đêm đường có thể
xuống thấp và gây ra biến chứng
trầm trọng như kinh phong, hôn mê. Nếu
mức đường đo trước khi
ngủ thấp hay gần bình thường thì nên
ăn một chút. Có thể đo đường
bằng que giấy có thuốc thử hoặc máy
đo tự động.
3-
Nếu phải dùng insulin thì nên mang sẵn
một ống chích với insulin đang dùng, phòng
khi cần đến bất thình lình.
4-
Cẩn thận trong việc ăn uống,
bớt chất béo bão hòa, giới hạn
muối, nhiều chất xơ. Chia thực
phẩm trong ngày ra nhiều bữa ăn nhỏ
để tránh đường xuống quá
thấp, nhất là khi đang chữa bằng
insulin.
4-
Vận động cơ thể hàng ngày để
điều hòa đường trong máu, làm
giảm cholesterol, giảm nguy cơ bệnh tim và
làm người bệnh cảm thấy khỏe hơn.
5-
Giới hạn dùng rượu vì rượu làm
giảm đường thoát ra từ gan,
đường trong máu xuống thấp, rất
nguy hiểm. Khi ở trong tình trạng này,
cần được cho dùng ngay một chút
thực phẩm có đường như một
ly nước trái cây, một cục kẹo.
6- Luôn
luôn mang theo một món ăn có đường
như một cục kẹo, một ly nước
ngọt, miếng trái cây để đề phòng
khi đường xuống quá thấp thì dùng.
7-
Thuộc lòng các dấu hiệu của chứng
đường xuống thấp như tự nhiên
thấy mệt mỏi, nói ngượng ngạo
khó khăn, cử động chân tay luýnh quýnh,
mất định hướng, gắt gỏng,
âu lo, đổ mồ hôi, nhức dầu, đói
bụng, muốn xỉu. Chia sẻ hiểu
biết này với thân nhân và người làm cùng
phòng cùng sở vì có khi mình cần họ
cấp cứu.
8-
Mang một bảng tên có ghi mình bị tiểu
đường, loại insulin hay thuốc viên
đang dùng để khi cần mà mình bất
tỉnh thì được cấp cứu.
9- Tránh những căng thẳng stress vì căng
thẳng có thể tăng hoặc giảm quá
độ đường trong máu.
10-
Chủ động trong nếp sống của mình
trong việc duy trì trung bình mức độ
đường qua dược phẩm, ăn
uống, vận động.
11-
Sinh hoạt bình thường nhưng cẩn
thận một chút để tránh biến
chứng làm bệnh trầm trọng hơn.
12-
Giữ chân khô, sạch, ấm. Cẩn thận
khi cắt móng chân tránh cắt vào da. Đi
giầy vừa khít, giầy cũ tốt hơn
giầy mới vì cứng dễ cắt vào da.
13-
Cẩn thận khi lái xe nhất là đang chích
insulin, máu xuống bất thường, gây ra tai
nạn.
14-
Khi dùng các thuốc không cần toa, lựa
thứ không có thêm đường và rượu
(như thuốc ho, sinh tố).
15-
Hợp tác và nghe theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Một
số người nam sẽ bị loạn cương
dương, giảm khả năng làm tình nhưng
ngày nay đã có nhiều phương thức
để cứu vãn vấn nạn này.
Nhiều người thiệt mạng vì biến
chứng tim mạch mà thông thường nhất
là cơn suy tim (heart attack) hoặc chết vì suy
thận.
Tự
đo Đường Máu.
Chìa
khóa thành công trong điều trị tiểu
đường là giữ glucose máu bình thường.
Do đó ta phải biết cách tự đo
đường máu nhất là khi đường
máu lên xuống bất thường. Với
tự đo này, ta có thể gia giảm insulin,
thuốc viên , điều chỉnh ăn uống
cũng như vận động cơ thể.
Trong quá khứ, ta thử đường trong nước
tiểu. Ngày nay thử đường máu chính
xác hơn. Thường thường ta cần
đo đường máu trước khi ăn, và
khi đi ngủ, là lúc mà đường ở
mức bình thường. Xin ghi kết quả trên
giấy tờ để dễ theo dõi cũng như
để bác sĩ thay đổi thuốc men,
dinh dưỡng. Hỏi bác sĩ về loại
máy dùng cũng như khi nào thì đo.
Hiểu biết căn bản về Insulin
Insulin
là kích thích tố do tụy tạng tiết ra mà
nhiệm vụ là để điều hòa,
kiểm soát mức độ đường
trong máu bằng cách dưa dường vào
tế bào, thay vì chạylong nhông trong huyết
quản.. Tất cả bệnh nhân loại I và
một số bệnh nhân loại II cần dùng
insulin để giữ đường trong máu
ở mức độ trung bình.
Insulin được hai bác sĩ Frederick G. Banting
và Charles H. Best khám phá ra năm 1922. Trước
đó nhiều khoa học gia cũng đã nghiên
cứu và thấy là trong tụy tạng có
một chất cần thiết để duy trì
bình thường đường trong máu.
Xin
ôn lại về tuyến tụy tạng.
Tuyến
lớn khoảng bàn taycùa ta và nằm ở sau
bao tử. Tuyến có hai nhiệm vụ quan
trọng chính yếu: giữ vai trò quan trọng
trong sự tiêu hoáthực phẩm bằng các diêu
tố do tuyến tiết ra; 2) kiểm soát năng
lượng mà cơ thể cần dùng bàng cách
điều bhoa dường glucose trong máu.
Tuyến tiết ra kích thích tố insulin, glucagon
và somastin. Insulin được tiết ra khi
glucose máu lên cao, chẳng hạn sau khi ta ăn. Các
tế bào được insulin kích thích ,
hấp thụ glucose để chuyển ra năng
lượng cho sinh hoạt cơ thể. Ghucose dư
sẽ được insulin dưa vào dự
trữ ở gan dưới hình thức glycogen.
Khi cơ thể cần glucose thì glucagon biến
đổi glycogen ra glucose. Còn somatostatin dường
như có nhiệm vụ điều hòa sự
sản xuất insulin và glucagon.
Insulin giúp cơ thể chuyển hóa đường
thành năng lượng và đưa đường
không dùng đến vào tích trữ trong gan và
bắp thịt. Khi có vấn đề khó
khăn với insulin như là thiếu, không có,
không công hiệu, thì đường sẽ tràn
đầy trong máu, một số sẽ
được bài tiết ra ngoài theo nước
tiểu.
Insulin nguồn gốc động vật như
từ tụy tạng của bò và heo. Còn human
insulin thì thực ra không phải từ tụy
tạng con người mà được chế
hóa từ vi khuẩn qua kỹ thuật biến
chế DNA.
Có nhiều loại insulin, tùy theo tác dụng mau
hay chậm, kéo dài hay tức thì. Ba loại chính
thường dùng là:
1-Tác dụng mau: Insulin này có tác dụng rất
mau (immediate), chỉ 15 phút sau khi chích và công
hiệu kéo dài khoảng từ 3 đến 4
giờ. Thí dụ Humalog.
2-Loại tác dụng ngắn hạn (Short acting):
thuốc công hiệu độ nửa giờ sau
khi chích, kéo dài từ 6 đến 8 giờ,
tối đa là giữa 2 và 4 giờ.
3- Tác dụng trung bình (intermediate-acting) như NPH
hay Lent insulin, có công hiệu từ 1 dến 3
giờ sau khi chích và kéo dài tới 24 giờ.
4- Tác dụng dài hạn (Long-acting) như
Ultralente. Sau khi chích, phải đợi tới 4-
6 giờ mới bắt đầu có tác dụng
nhưng công hiệu kéo dài từ 20 tới
24 giờ. Công hiệu tối đa là lúc 6
tới 8 giờ sau khi chích.
Cách dùng insulin
Vì cơ
thể không cung cấp đủ insulin nên người
bệnh phải chích thêm insulin. Trước khi dùng,
cần đo nhiều lần và ghi mức độ
đường trong máu để bác sĩ
biết mà ra toa số lượng cần
thiết.
Thường thì người bệnh cần chích
ít nhất hai lần một ngày, có người
cần đến ba bốn lần chích mới
đủ để kiểm soát đường
trong máu. Khi dùng insulin nhiều quá thì đường
sẽ xuống quá thấp, người bệnh
bị phản ứng insulin mà triệu chứng
là: nhức đầu, tim đập nhanh,
mệt mỏi, mất định hướng,
đổ mồ hôi, buồn nôn, đói
bụng, đôi khi bất tỉnh, làm kinh, hôn mê.
Bệnh nhân sẽ được chuyên viên y
tế hướng đẫn về cách thức
sử dụng và kỹ thuật chích. Sau đây
là ít điều cần nhớ:
1- Insulin có nhiều loại khác nhau với công
dụng khác nhau. Không nên thay đổi loại
mà không tham khảo ý kiến bác sĩ trước.
2- Insulin giữ trong tủ lạnh sẽ dùng
được lâu hơn đồng thời cũng
tránh được nhiễm trùng. Khi đã dùng
dở thì có thể để ngoài tủ
lạnh được một tháng nhưng tránh
chỗ nóng và có ánh nắng mặt trời. Không
bao giờ cất insulin trong ngăn đá
hoặc làm ấm trong microwave.
3- Kiểm soát nhãn hiệu trên lọ insulin cho
đúng loại. Vứt bỏ insulin short-acting
nếu nom thấy đục hoặc đặc
sệt. Các insulin khác bình thường nom đều
như sữa, không lợn cợn đóng
hột. Trước khi hút thuốc vào ống chích,
lăn chai thuốc trong lòng bàn tay cho dung dịch
hòa đều, ngoại trừ với insulin
short-acting. Đừng lắc lọ thuốc quá
mạnh vì bọt khiến lượng thuốc
hút vào không chính xác.
4- Trước khi lấy thuốc, kéo ống chích
lên để không khí vào ống chích bằng
với phân lượng insulin, cắm kim vào
lọ, bơm không khí vào rồi hút thuốc.
5- Mua ống chích tùy theo loại insulin và phân lượng
chích. Nên dùng ống chích của một nhà
sản xuất để số lượng
insulin mỗi lần rút ra được đồng
đều. Mặc dù không được
khuyến khích, nhưng khi dùng lại kim ống
chích cũ thì nên chùi kim cho sạch với rượu
cồn hoặc đun trong nước sôi độ
dăm phút. Cũng không nên dùng đi dùng
lại nhiều lần quá.
6- Nơi chích thuốc thường là trên
bụng (hiệu lực mau nhất), mông, mặt
trước của đùi (hiệu lực
chậm nhất), mặt sau của tay (hiệu
lực trung bình). Thay đổi chỗ chích
để tránh tổn thương và sẹo
dầy cho tế bào mỡ ở vùng đó,
cản trở hấp thụ thuốc.
7- Trước khi chích, lau sạch da bằng
cồn. Với hai ngón tay, kep nổi lên một
nếp da. Kim chích nghiêng 90 độ, chích
vảo nếp da. Trước khi bơm thuốc,
kéo nhích piston coi có máu không. Nếu không có máu
thì bơm thuốc vào, còn khi có máu thì chích
lại. Sau khi chích, thoa nhẹ trên da chỗ chích
. Tránh chích nơi da bị nhiễm độc
hoặc bị dị ứng nổi ban đỏ.
8- Insulin có thể gây dị ứng với
nhiều người bệnh hoặc nếu ai
dị ứng với thịt bò, thịt heo thì
không được dùng insulin từ súc vật
này.
9- Vì là dược phẩm, nên insulin có tương
tác với một số dược phẩm khác,
vì thế cần cho bác sĩ rõ là mình đang dùng
thuốc nào, để làm gì.
Kết
luận.
Bệnh
tiểu đường là bệnh có thể
kiểm soát được . Điều quan
trọng là người bệnh cần sử
dụng thuốc theo lời dặn của bác
sị cũng như duy trì sự ăn uống,
cân bằng, đời sống lành mạnh.
Bác Sĩ
Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas-USA
( Trích từ sách Dinh Dưỡng, cùng tác
giả-Mới xuất bản.)
|
|