Ngày này 50 năm trước!

Vũ Đăng Khuê

Bạn ta!

“Hôm nay trời quá lạnh hoặc chưa năm nào lạnh như năm nay”. Câu nói quen thuộc mà bạn ta chắc đă nghe quen. Bạn ta cảm thấy “lạnh” v́ đă quên cái lạnh năm ngoái, mà cảm cái lạnh ngay trước mắt, dù theo những “ghi nhận” th́ “biến thiên” nhiệt độ mùa Đông của mọi năm th́ vẫn b́nh b́nh, không lên không xuống. Tokyo ít khi nào xuống dưới 0 độ. Nhưng năm nay th́ lạnh thiệt, miền Bắc Nhật Bản như Hokkaido, Niigata, Akita, Aomori… th́ khỏi nói, có nơi xuống đến -30 độ, miền Nam như Kyoto, Nagoya ….th́ – 6 độ. Ngay tại nơi tôi ở sát Tokyo, bên ngoài cũng giá rét, bây giờ đang là -4 độ, buổi trưa có thể “ấm” lên đến 3, 4 độ rồi sẽ tiếp tục lạnh dài dài cho đến khi nào th́…..trời biết.  Ngồi nhà, ôm cái ḷ sưởi, đầu miên man nghĩ lại vài chuyện đă qua. Xin kể 2 câu chuyện.

----------

Ngày đ́nh chiến.

50 năm về trước, 8 giờ sáng ngày 28/1/1973 là ngày có hiệu lực Hiệp Định Đ́nh Chiến Ḥa B́nh Paris (kư ngày 27/1/1973). Tôi nhớ rất rơ, lúc đó đang chuẩn bị thi vào đại học sau khi học tiếng Nhật 1 năm. Đêm hôm “kư ḥa b́nh”, th́ bọn sinh viên tụi tôi cả hai phe “hữu” và “tả” hơn trăm mạng đă tụ tập tại hội trường của cư xá sinh viên Kokusai để cùng nhau bày tỏ nỗi niềm. Sau một hồi góp ư, tranh luận cũng khá căng thẳng v́ cả 2 phía đều giải thích dựa trên chính kiến của ḿnh. Có 2 luồng suy nghĩ trái ngược: Nghi ngờ và tin tưởng vào hiệp định. Tôi nhớ cha Vũ Đ́nh Trác có nhắc nhở: “Ngay sau những giây phút vừa kư hiệp định th́ cộng quân vẫn tiếp tục tấn công một vài nơi, ḿnh phải cẩn thận theo sát t́nh h́nh”. Dù thế tụi tôi cũng cảm thấy vui, v́ lần đầu tiên mới có sự "họp mặt" như vậy và vui hơn chút nữa v́ tạm thời tiếng súng sẽ ngừng nổ, cả 2 bên sẽ không c̣n những hy sinh oan uổng. Hy vọng này có thế dẫn đến niềm tin là dân của 2 miền Nam-Bắc sẽ từ từ bắt tay nhau xây dựng quê hương lại đổ nát. Tụi tôi nắm tay nhau quay ṿng trong hội trường, tôi nhớ là tôi đă cầm đàn để cùng mọi người hát bài “Giọt Mưa Trên Lá” và “Việt Nam-Việt Nam”. 

Ngày tháng trôi qua. Nhưng sự thể đă không như thế, “Hôm nay ḥa b́nh sao mắt mẹ chưa vui”. Ngày Kư Hiệp Đ́nh Chiến Paris cũng chính là hồi chuông báo tử cho sự mất miền Nam với bao tang thương, mất mát đă xảy ra và 30/4/75 đă đến. Mấy tên bạn cùng lớp đă lên đường ṭng quân vào tháng 4/72, tên th́ Nhảy Dù, tên th́ Biệt Động Quân, tên th́ Thủy Quân Lục Chiến….đều đă bỏ ḿnh nơi chiến trận. Ông em rể Bộ Binh tôi cũng bị bắt làm tù binh trong những trận đánh cuối mùa. Gia đ́nh nào cũng ly tan và mất mát. Nghĩ lại thấy bùi ngùi và thấy mặc cảm, khi những anh em đồng lứa đă đem cả tuổi thanh xuân ḿnh lao vào cuộc chiến ǵn giữ quê hương, c̣n ḿnh th́ vẫn “ấm yên” nơi xứ người. Giả sử nếu tôi không lên đường du học th́ số phận tôi sẽ như thế nào nhỉ? Thú thật tôi không dám nghĩ tiếp. 

------------

Tôi đi học

Tôi xin bắt đầu bằng một trích đoạn trong bài viết “Tôi Đi Học” của nhà văn Thanh Tịnh,

“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đă quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, v́ chính ḷng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học”.

Đoạn văn tả lại cảm tưởng ngày đầu tiên cắp sách đến trường của một cậu học tṛ. Cùng với mẹ, trên đường từ nhà đến trường, xuyên qua con đường làng dù rất quen thuộc, nhưng cậu lại mang tâm trạng: bỡ ngỡ và có điều ǵ khang khác với ngày thường v́ ḷng cậu đă có sự thay đổi lớn như cậu “thú nhận”: “Hôm nay tôi đi học”,

Thú thật là tôi không thể nhớ lại cảm tưởng ngày đầu “cắp sách đến trường” của tôi như cậu học tṛ của nhà văn Thanh Tịnh, v́ đă quá lâu, nhưng tôi lại nhớ rất rơ cảm tưởng ngày “cắp sách đến trường lần 2” trên đất mới.  Cảm giác của tôi giống và khác với cậu học tṛ của nhà văn Thanh Tịnh, con đường tôi đă đi qua không phải là con đường quen thuộc và cảnh vật xung quanh tôi đă gặp th́ hoàn toàn lạ lẫm.

Vào một ngày cuối tháng 12 năm 1971, khi 19 tuổi, tôi đă được gia đ́nh, bạn bè đưa tiễn để bắt đầu cho cuộc hành tŕnh mới.  Tôi đă lên đường với một niềm tin: “Tôi đi, tôi học, xong tôi sẽ trở về phục vụ và đóng góp  cho nơi tôi đă sinh và dưỡng tôi suốt từ thời thơ ấu”.

----------

Tôi sinh ở một làng quê có tên là La Thiện, cách xa tỉnh lỵ Sơn Tây 18 km, cách núi Ba V́ đi theo phía ngược hay phía xuôi cũng khoảng 18 km. Làng tôi nằm ngay trên hữu ngạn sông Hồng Hà, phía trên sông Hát Môn - nơi 2 Bà Nữ Anh Hùng đă trầm ḿnh - đi khoảng 21 km và cũng đối diện với thành phố Việt Tŕ là căn cứ quân sự lớn của Pháp, nằm ngay ngă Ba sông Hồng Hà và sông Tô. Về mùa nước th́ sông nước mênh mông trông rất xa nhau khoảng 2 km. Nhưng về mùa khô th́ đứng ở băi cát bên này có thể nói chuyện với người đứng bên kia. Làng tôi quen thuộc với thành phố Việt Tŕ hơn là thành phố Sơn Tây”.

Dù chưa một lần ngắm núi Ba V́ in bóng trên gịng sông Đáy lặng lờ trong chiều xanh êm ả, nhưng tôi vẫn tưởng tượng và yêu mến vô cùng bức tranh quê hương đó, qua lời thơ của Quang Dũng, nhẹ nhàng mà gói ghém nhớ thương:


Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây


Đôi mắt người Sơn Tây ngày xưa, chính là đôi mắt của tôi, của hàng triệu người xa xứ, vẫn ngày đêm thương nhớ bờ kia đất nước.


Xa quá rồi em người mỗi ngă
Bên này đất nước nhớ thương nhau


Vào Nam năm 1954 khi c̣n bồng ẵm, qua lời kể của bố tôi và tâm t́nh của nhà thơ Quang Dũng nên chỉ biết nơi chôn nhau cắt rốn của tôi là thế. Cho đến khi rời nước cuối 1971 hầu hết tôi sống ở Saigon, nên niềm nhớ quê hương tất cả đều là Saigon.

Tôi xa Saigon đă lâu lắm, nên đầu óc vẫn c̣n “hỗn loạn”, nhập nhằng với địa danh đă thay họ đổi tên của những con phố, của những con đường ngày xưa cũ. Kư ức con người rồi cũng phải nhạt nḥa theo nhịp sống hối hả, cơm áo gạo tiền trên đất mới. Nhưng tôi vẫn nhớ những con đường mà tôi đă đi qua của cái thuở c̣n: 

Cho mùa Hè chim xưa vừa cánh trắng
Cho thênh thang em áo lụa khăn dài
Tôi tóc bay qua bao mùa phiêu lăng
Chút êm đềm trong gấu áo chưa phai

(Thơ Mường Mán)

--------

Nhà tôi ở cuối đường Hồng Thập Tự, trên đường Nguyễn Thiện Thuật, ngay trên con hẻm 16 khá lớn. Quẹo phải, đi vài căn là đến tiệm cơm B́nh Dân Tân Thành, ngon nổi tiếng với món thịt ram và ḿ Quảng. 
Nhà tôi cách quán cơm Tân Thành một con hẻm nhỏ, đi khoảng 2 phút là sẽ ra đường Hồng Thập Tự, quẹo trái th́ đến trường Thăng Long và tôi bắt đầu học thêm Toán Lư Hóa từ ngay sau khi trường mới mở (1969). Quẹo phải là cái bùng binh, gần đó là trường Petrus Kư, bên cạnh là đại học Khoa Học mà tôi có dịp học vài buổi trước khi lên đường sang Nhật.  

*Sang phía bên kia là hẻm 21 Nguyễn Thiện Thuật, có cà phê Năm Dưỡng. Cà phê quán này nổi tiếng khắp vùng!  Quán này có một cô có lối ăn nói “trống không”, cặp mắt có cái đuôi dài mà có người đă ví mắt đuôi dài là “sự “pha trộn” giữa mắt phượng và mắt bồ câu – vừa có độ ngây thơ, vừa mang vẻ quyến rũ”. (*) Không biết có thật thế hay không v́ tiếp xúc và gặp gỡ không nhiều, nhưng tôi cứ….tin là như thế để đời cảm thấy… màu hồng dễ chịu. Cứ thấy tôi ghé vào tiệm là quán lại vang vang những đĩa nhạc của Beeges, Ventures v́ biết tôi ưa thích, tự động một ly cà phê “sữa nhỏ” bốc khói dậy mùi mang đến tận bàn với cái nh́n nằm giữa “nguưt” và “lườm”, h́nh như thay cho lời “nhắn”: Phần của anh nè. Tui biết quá mà.
 

*Cũng gần đó, trước tiệm ḿ Tân Nam Hưng có quán cơm tấm của D́ Năm,  D́ có mấy người con, con đầu của d́ th́ học cùng năm và cùng thi Tú Tài với tôi, c̣n cô em kế th́ có khuôn mặt và đôi mắt trông rất dịu dàng, có mái tóc không dài, không ngắn.  Dạo về thăm nhà đầu 75, tôi dẫn cậu em và cô em ghé tiệm ḿ Tân Nam Hưng ngay trước sạp bán cơm tấm của cô, vừa ăn ḿ “xíu mại” và kêu một đĩa cơm b́ chả. Thường thường th́ em cô sẽ là người mang đến, nhưng hôm đó Cô tự tay mang đến nh́n tôi với ánh mắt vừa xa vắng như thầm trách móc: “Anh đi đâu mà biệt tăm vậy, không thấy anh nói ǵ, lâu quá mới thấy mặt anh”. Tôi nhớ hoài câu đó, ḷng thấy nao nao chi lạ. Sau này có hỏi thăm th́ h́nh như cô vẫn c̣n sống một ḿnh. Không biết cô chủ trương như thế hay chờ ai, nhưng chắc chắn không phải là tôi. 

*Cuối hẻm 16, có một tóc dài áo trắng chắc dân Nguyễn Bá Ṭng. Ngày nào cô cũng đi ngang nhà người bạn, nơi tôi vẫn ngồi chờ…cô và nghêu ngao những bản nhạc của Nhật Trường, cô thường nh́n và lúc nào cũng nở với tôi một nụ cười. Riết rồi quen, không thấy nụ cười này h́nh như ḷng tôi cảm thấy thiếu thiếu ǵ đó, không chịu được. Lúc về lại Saigon lần đầu, tôi có ư đi t́m nhưng bóng cô vẫn bóng chim tăm cá.  

3 “dáng huyền” tôi vừa nhắc mà ngay cả cái tên cũng tôi không biết khiến tôi “cầm ḷng không đậu” mỗi khi nhớ về quê nhà.

--------

Tôi học ở Nguyễn Bá Ṭng (Bùi Thị Xuân), Hưng Đạo (Cống Quỳnh), Thăng Long (Hồng Thập Tự), mỗi sáng đến trường, vừa đi vừa nhớ lại cái vườn bông Khải Định cuối đường Hồng Thập Tự, nơi có những hẹn ḥ, bỡ ngỡ của những cặp nhân t́nh trẻ, của những mối t́nh đẹp như mơ của một cặp đôi mà ḿnh đă từng là nhân chứng. 

Trên đường Nguyễn Thiện Thuật có “Bánh Ḿ Hà Nội”, cạnh tiệm là quán bánh cuốn Thanh Tŕ mà tôi đă quên tên. Lên trên chút xíu là tiệm đàn Đức Thắng, nghe nói bây giờ là phố Đàn. Băng qua Phan Đ́nh Phùng sang phía bên kia là Phở Tàu Thủy, đối diện là phở gà Hồng Hương. Nhà tôi gần chợ Bàn Cờ khoảng 10 phút đi bộ, có bún riêu bà Kiều, quán nổi tiếng không ai là không biết. Bà Kiều thường quấn khăn mỏ quạ khi bán hàng, nhanh nhẹn “phục vụ” cho từng khách một.

Và c̣n nhiều lắm……

-------------

Tôi đến phi trường Haneda Nhật trong cái lạnh buốt vào ngày cuối của năm 1971. Được ngắm người Nhật ăn Tết Nhật lần đầu với thật nhiều điều mới lạ. Tôi đi đền Meiji Jingu, ghé thăm phố Harajuku, nơi tổ chức Olympic 1964, thưởng thức yakisoba đầy mùi thuốc Bắc…, đi với mấy người bạn mà không biết là ḿnh đang đi ở ngoài trời hay đi dưới ḷng đất. Lạ lẫm và hoàn toàn choáng ngợp so với Saig̣n tôi đă ở.

2 tuần sau tôi bắt đầu cắp sách đến trường học Nhật Ngữ. Tôi bỡ ngỡ và bắt đầu lạng quạng và chật vật với một thứ chữ hoàn toàn mới lạ. Để giải khuây, tôi đă rủ rê mọi người ca hát, tôi cầm đàn, lập ban tứ ca, tham gia các chương tŕnh văn nghệ. Chỗ nào có nhạc là tôi nhất định chen chân, v́ đó là thú tiêu khiển duy nhất của tôi ngay từ lúc c̣n ở quê nhà. Sau một năm “chơi nhiều hơn học” tôi đă may mắn vào một đại học ở Yokohama nằm cạnh Tokyo 1 tiếng 30 phút xe điện. Tôi vẫn học, vẫn cầm đàn ca hát. Cuộc sống của tôi khá bằng phẳng,…..trơn tru, bên cạnh những tin tức về cuộc chiến càng ngày càng dữ dội .

Khoàng tháng 2/1975, tôi có về thăm nhà. Saigon lúc tôi đi (1971) và lúc tôi về lần đầu cũng không nhiều thay đổi. Vẫn c̣n những phố xá thân quen, vẫn c̣n mùi rất “khó chịu nhưng dễ chịu” của chợ cá Trần Quốc Toản, những con đường lầy lội khi “mùa mưa về cũng lem nhem bước lên ngơ trơn” (Nguyễn Đức Quang). Ở Việt Nam được 1 tháng th́ tôi phải quay về Nhật trên một chuyến bay tơi tả đă dùng để chở người di tản. Tin chiến sự tràn ngập trên mặt báo, trên truyền h́nh và cuối tháng 4/75 th́ Saigon của tôi đă mất.

Điều tôi “ân hận” nhất là không được sống ngay trong những giây phút kinh hoàng khi quê hương đổi chủ. Tôi “cảm” được nhưng tôi hoàn toàn không “nhận” được.

Khác với những bước đi đầy tự tin lúc đầu, bước đi của tôi đă trở nên khấp khểnh, bấp bênh với con đường trước mặt. Tôi làm đủ nghề: anh bồi, rửa nhà, cu ly khuân vác, vét bùn nạo ống cống để tự sống khi sự học c̣n đang dang dở.  Sau khi tốt nghiệp, tôi đi làm về máy tính, rồi tôi đi dạy học… và tôi đă xa hẳn cội nguồn cũng đă hơn 50 năm kể từ ngày đó.

Định mệnh đă đẩy đưa cuộc đời khiến tôi biết và quen được những người bạn mới đủ các thành phần “quân dân cán chính”: boat people, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, du sinh….Tôi đă sống những ngày có lúc nhọc nhằn, có lúc hào hùng-kiêu dũng nhờ và bằng “tâm sự” thật của các người bạn mà tôi đă gặp. Bạn ta có thể biết những “tâm sự thật” xuyên suốt qua các bài viết của bạn tôi.

Tuổi càng ngày càng cao, được ông bác sĩ gia đ́nh khuyên thân thể nên vận động tại một pḥng tập gần nhà. Một slogan thường gặp hàng ngày nơi tôi hay đến sẽ là “kim chỉ nam” cho tôi với cuộc sống hiện tại: “Kỳ vọng của tôi là sẽ tự đi bằng chính đôi chân của thân thể ḿnh cho đến những phút cuối của cuộc đời”. Tôi đă, đang và sẽ cố gắng tiếp tục đi.

Tôi ngừng ḍng suy nghĩ của tôi, và cám ơn bạn ta đă đọc.

V.Đ.K

“Từ Hiệp định Genève 1954 đến Hiệp định Paris 1973” (Trọng Đạt)

 

Kingdoms of Eastern Europe - Albania