Chữ với nghĩa! Vũ Đăng Khuê Thú thật với bạn ta, chữ nghĩa thời nay, tôi đọc thấy nó làm sao ấy, không giống như cách nói của ḿnh hồi trước. Đi dạy học cũng 30 năm, tôi luôn cố update hàng ngày để theo kịp lỡ có người hỏi. Khi nghe câu nói xong tôi giật bắn người v́ trái ngược với những ǵ ḿnh đă nói và đă được học. - Món này hơi “bị” ngon à nhe! - Áo này hơi "bị" đẹp đó Theo chỗ tôi hiểu th́ “Bị” là từ chỉ đứng trước tĩnh từ hay động từ mang tính “tiêu cực” . “Tôi bị nó lừa”, “Tôi bị cảm”, ngược với chữ “được” mang đầy tính “tích cực”: “Tôi được công ty nhận vào làm”. “Em nó vào được trường tốt”, “Cháu nó lấy được người chồng tốt” chẳng hạn. Tôi có hỏi ngay người nói tại sao lại là “bị”, họ “vô tư” trả lời: nói riết rồi quen, có nghĩa là “ngon” hay “ngon quá”. Cũng may là chưa bị học tṛ người Nhật nào hỏi những câu như thế. Thêm một cách nói quá tĩnh lược đầy rẫy của "quân ta" hiện tại như “thăm thú”, (đi thăm viếng nhiều nơi cho biết đó biết đây) “thăm thân” = (thăm người nhà, thân nhân), “tuyển Việt Nam” = (đội tuyển Việt Nam) , “suy tim măn (hay mạn)” = (suy tim măn tính), Có thể đoán ra và cũng có thể ú ớ không hiểu nổi như 2 từ “thăm thú, thăm thân”. Có thêm vài từ mà bấy lâu nay tôi cứ hiểu lầm, ngược hẳn với ư nghĩa. 2 từ ngữ “giăn cách ly”, “giăn cách xă hội”. “Giăn cách ly” tôi vẫn hiểu là đă “gỡ bỏ t́nh trạng khẩn trương, lockdown”, c̣n “giăn cách xă hội” th́ nghĩ là ḿnh phải giữ một khoảng cách với người phía trước khi phải xếp hàng, ở Nhật là 2m, nhưng hoàn toàn trật lất, nghĩa của 2 từ ngữ này chỉ là một: “t́nh trạng khẩn trương” hay lockdown. Thời của tụi tôi không bao giờ tôi được nghe những cách nói mà tôi đặt là "中途半端 - chutohanpa - nửa vời”, chẳng hạn: - Anh ấy “cá tính” lắm = Anh ấy có cá tính mạnh lắm - Hôm nay coi bộ “tâm tư”! = Có chuyện ǵ mà hôm nay buồn vậy! - Máy đang bị “sự cố”. = Máy đang bị trục trặc Những từ như “vô tư”, “động viên”, “bố trí” v.v….th́ không chỉ mang 1 ư nghĩa mà có nhiều ư nghĩa khác hẳn so với thời tụi tôi. - Thằng đó đến tuổi “động viên” rồi, (đến tuổi phải thi hành quân dịch). - Cám ơn những lời “động viên” của bạn th́ bạn ta đă hiểu khỏi cần giải thích. Nếu tôi th́ tôi sẽ nói: “Cám ơn những lời khuyến khích của bạn”. - Cháu nó c̣n "vô tư" lắm (là c̣n thơ ngây, trẻ con lắm, không suy nghĩ) - Họ “bố trí” em dạy ở tầng 2 anh ạ. (Họ xếp cho em dạy ở tầng 2 anh ạ) Chữ “bố trí” thời tôi học hay dùng vào việc sắp xếp phân chia đơn vị cho việc điều binh, nhưng thời nay lại được hiểu rộng hơn. - Vân vân và vân vân - Bánh cuốn đă được "bổ sung" chả quế cứ "vô tư" mà ăn nhé các bác! (Có thêm chả quế nữa, ăn thoải mái nghe bà con cô bác!) C̣n nhiều chữ như loại này lắm quân ta ơi. Nói như vậy tôi không có ư chê bai hay kỳ thị vùng miền, mà chỉ thấy ngạc nhiên, biết được thêm cách nói “lạ”, nghe riết cũng phải quen tai "thôi", nhưng không dám dùng v́ không tự tín, thấy nó sao sao ấy. Chữ "thôi" tôi để trong ngoặc kép là v́ được nghe lần đầu tiên vào năm 1977. - Thế cũng tốt "thôi"! - Phải ăn "thôi"! Nếu như lúc trước th́ tôi sẽ nói: - Thôi được rồi, (c̣n đ̣i hỏi ǵ nữa). - Đành phải ăn vậy, (chứ không đói sao) Chữ nghĩa biến đổi khôn lường, chạy theo không kịp. Sáng nay được một ông bạn gửi cho link của một trang có tên “Rong chơi chữ với nghĩa”. Tôi sẽ đọc từ từ để hiểu thêm nhiều từ lạ tai nhưng quân ta cứ dùng một cách quá “vô tư”. Có ai biết ǵ thêm th́ xin chỉ bảo. Ngàn vạn lần cám ơn! Sayonara Vũ Đăng Khuê
|