Trân
châu và Linh địa Nhật Bản
Trương Văn Tân
Khi muốn đi t́m nguồn cội của nền văn hóa và linh hồn Nhật Bản th́
có lẽ bán đảo Kii ở phía nam hai thành phố Osaka và Kyoto là nơi cho
nhiều thông tin tham khảo.
Từ Tokyo tôi lái xe dọc theo con đường
Tokaido (Đông hải đạo) rồi rẽ vào bán đảo Kii ở phía Nam thành phố
Nagoya th́ đến thành phố Yokka-ichi cửa ngơ đi vào bán đảo Kii.
Yokka-ichi từng là biểu tượng cho sự hùng mạnh của nền kinh tế Nhật
Bản trong thời kỳ phát triển cao độ ở thập niên 60 và 70 của thế kỷ
trước. Nhưng Yokka-ichi cũng là biểu tượng của ô
nhiễm v́ những cơ sở công nghiệp nặng, nhà máy lọc dầu có mặt khắp
nơi ở thành phố này. Khói nhà máy đă từng
phủ lấp bầu trời. Ngày nay, ô nhiễm đă
biến mất, những chiếc ống khói khổng lồ đă từ lâu tắt khói, bầu trời
thành phố trong xanh trở lại, những đàn cá nhỏ lượn lờ trong ḍng
sông trong veo nh́n thấy đáy.
Con đường cổ Tokaido như một vệt cắt phân đôi hai miền. Phía bắc của
con đường này là b́nh nguyên Kansai bao gồm nhiều thành phố quan
trọng kéo dài từ Nagoya đến Kyoto và Osaka nhộn nhịp với những hoạt
động kinh doanh hừng hực sức sống của một nền kinh tế hùng mạnh nhất
nh́ vùng Đông Á. Miền phía nam là vùng sơn địa của bán đảo Kii chập
chùng rừng núi. Càng đi về phía nam bán đảo, cảnh quan nhộn nhịp với
những chiếc xe tải ầm ĩ ngược xuôi và
những chiếc tàu hàng khổng lồ ở các bến cảng dần dần được thay thế
bởi màu xanh của cây rừng và màu xanh của biển với những ngọn sóng
bạc đầu lung linh phản chiếu trong ánh nắng mặt trời. Núi đồi tập
trung ở trung tâm bán đảo tạo nên một vùng chắn thiên nhiên mà cho
đến đầu thế kỷ 20 khu vực phía nam bán đảo (tỉnh Wakayama ngày nay)
vẫn là một nơi cô lập tách rời ra khỏi phần c̣n lại của Nhật Bản.
Ngày xưa người Nhật xem vùng này như là "cô đảo" (ḥn đảo cô lập)
của đất liền. Muốn đến đây người ta phải đi bộ vượt thác băng rừng.
Có di chuyển bằng xe hơi, mới biết được
Nhật Bản không chỉ có rừng, núi, biển, đảo mà c̣n có sông rạch.
Núi phải gắn liền với khe suối để nước mưa có
thể thoát ra biển, nên trong tiếng Hán Việt có từ "sơn khê".
Nhiều khe suối nhỏ hợp lưu tạo nên những ḍng
sông. Phần lớn những con sông Nhật không phải trường giang
dài rộng như ḍng Mekong mà chỉ là ḍng sông có bề rộng trung b́nh
vài mươi mét. Núi rừng chiếm gần 90% diện tích nước Nhật nên không
ǵ ngạc nhiên khi Nhật có hơn 13.000 ngọn núi và 20.000 con sông dài
ngắn khác nhau. Địa lư đa dạng đi cùng vùng miền nên các địa danh
Nhật thường có tên gắn liền với những từ như kawa (sông),
hama (bờ biển), yama (núi),
oka (đồi), mori (rừng), shima (đảo).
Ngày nay, những đường hầm xuyên núi đă khắc phục được khó khăn giao
thông, đem văn minh đến vùng cực nam bán đảo Kii.
Khi đi vào vùng đồi núi xe phải xuyên qua hơn 20 con đường hầm, có
những hầm dài hun hút hơn 4 km, hầm ngắn vài trăm mét nối tiếp nhau
trên tuyến đường dài 100 km. Giữa hai ḥn núi thỉnh thoảng có ḍng
sông nhỏ chảy ngang một thung lũng bằng phẳng.
Trên đó làng xóm mọc lên tạo nên một bức tranh đồng quê Nhật Bản yên
tĩnh mộc mạc với núi rừng.
Đi ngang dọc hơn 1500 km trên bán đảo Kii dừng chân tại thị trấn
Toba, thành phố Ise, thị trấn Koyasan và một số vùng lân cận, tôi
t́m hiểu địa h́nh và những nét văn hóa lịch sử tại đây mà người Nhật
gọi là "Linh địa". Mỗi nơi mang một sắc thái
riêng biệt đă cho tôi nhiều cảm hứng và suy tư khác nhau. Lúc
th́ hồn nhiên ch́m đắm trong các ư tưởng khoa học của quá tŕnh cấy
ngọc trai ở Toba, lúc th́ cố gắng lư giải triết lư Phật học khi đặt
chân đến linh địa Koyasan, lúc th́ bức xúc quan tâm đến môi trường
khi đi qua những cảnh quan hùng vĩ. Những quăng đường dài mà tôi
lang thang đi qua đă mang đến cho tôi
nhiều xúc cảm mênh mang trong một niềm vui b́nh dị. Bây giờ, tôi
muốn lang thang chữ nghĩa cùng bạn đọc để
chia sẻ những cảm xúc đó bằng những ḍng chữ tản mạn theo nhịp dao
động tùy hứng vui buồn của con tim.

Trân châu Toba
Dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo đi
về phía nam là thị trấn Toba và thành phố Ise. Nơi này có những trại
nuôi tôm hùm Ise nổi tiếng trong ẩm thực Nhật Bản và trại nuôi hàu
để thu hoạch ngọc trai.
Bờ biển vùng này được tạo bởi nhiều vịnh hẹp
ngoằn ngoèo đi sâu vào đất liền, quanh năm khí hậu ôn ḥa, ít gió to
sóng dữ, nước biển trong xanh. Ngọc trai c̣n có tên là "trân
châu" là món trang sức quyến rũ và sang
trọng như kim cương, thứ mà từ ngàn xưa đă làm mê mệt phái đẹp ở mọi
giai cấp từ nữ hoàng đến thứ dân, trong mọi thời đại từ Cleopatra
đến Elizabeth II. Nhưng việc tạo ngọc trai phó mặc cho trời trong cơ
thể con hàu th́ chưa bao giờ cho ra những viên ngọc tṛn hay những
h́nh thể mà con người yêu thích.

Trong ḷng biển của con vịnh hẹp ngoằn ngoèo
có nhiều trại nuôi hàu cấy ngọc. (Ảnh: Truong)
Mikimoto Kokichi sinh ra và lớn lên tại Toba vào giữa thế kỷ 19 (thời
Minh Trị) là một nhân vật cách mạng hóa việc cấy ngọc trai.
Ông là con trưởng của người bán ḿ udon nghèo khó. Ngày ngày
ông nh́n thấy ama (hải nữ), những phụ nữ chuyên nghiệp lặn
bắt hải sản, ngọc trai theo truyền thống
Nhật trong vùng biển Toba. Khi nh́n những hạt ngọc trai tự nhiên
nhiều màu sắc nhưng h́nh dạng xấu xí ông nảy ra ư định làm ra viên
ngọc trai tṛn cân đối. Ông đă cấy được những
ngọc trai h́nh cầu sau 12 năm mày ṃ nghiên cứu. Cơ bản việc
cấy ngọc trai là để vào cơ thể con hàu một vật làm "nhân" như một
chất nền. Khi dị vật được đặt vào cơ thể con hàu th́ nó tự động phủ
lên vật này những lớp xa cừ (nacre) như một cách pḥng vệ. Tiếc rằng
những hạt cát hiện diện trong ḷng biển hay sông quá nhỏ để con hàu
cảm nhận. Nếu chúng cảm nhận được, có thể con ngươi đă
thu hoạch được vô số cát xa cừ!
Xa cừ chứa phần lớn hợp chất canxi cacbonat có thành phần giống như
viên phấn viết bảng.
Điều này cũng không khác ǵ kim cương có
một nguồn gốc khiêm tốn là tập hợp của các nguyên tử cacbon. Con hàu
"thông minh" biết tạo những lớp xa cừ cứng bằng công nghệ nano,
trong khi viên phấn do con người tạo nên chỉ là hạt canxi cacbonat
bời rời. Mỗi lớp xa cừ có cấu tạo như bức tường
gạch của người thợ nề, với những viên gạch nano canxi cacbonat được
gắn dính vào nhau bằng chất protein như xi măng.
Lớp tường nano này có độ cứng 3000 lần lớn hơn
viên phấn. Màu sắc của xa cừ sặc sỡ giống như bọt xà pḥng là
do sự phản xạ ánh sáng từ các lớp xa cừ có độ dày mỏng khác nhau. Để
ngọc trai có một màu đồng nhất th́ độ dày phải đồng nhất bao gồm
những màu trong ánh sáng thấy được từ màu hồng đến màu xanh.
Cuộc đời sẽ rất chán nếu mọi thứ chỉ có một màu.
Cũng như kim cương, con người cũng muốn
có ngọc trai nhiều màu khác nhau, nhất là màu hồng hay màu xám đen.
Con hàu sông cho màu ngọc trai khác con hàu biển. Tương tự, hàu ở
đại dương này khác hàu đại dương kia.
Phẩm màu thiên nhiên chứa trong cơ thể con hàu là những khoáng chất
hóa học và khoáng chất này thay đổi theo
vùng miền cho ra những màu khác nhau. Việc t́m
ra cơ chế để điều chỉnh màu thiên nhiên của ngọc trai vẫn là đề tài
nghiên cứu khoa học sôi động trong sinh học phân tử. Đơn giản,
những loại nghiên cứu này là thứ làm ra tiền, và rất nhiều tiền. Quả
thật, nhiệt t́nh yêu thích ngọc trai và sự hào phóng chi trả của chị
em phái đẹp đă thành động lực chính thúc đẩy việc nghiên cứu sinh
học cũng như sinh lư học của con hàu, con trai, bào ngư từ thời đại
của Mikimoto; mà cho đến ngày nay vẫn chưa chấm dứt.
Công ty Mikimoto trở thành thương hiệu nổi tiếng thế giới hơn nửa
thế kỷ và chiếm thị phần toàn cầu hơn 50%.
Nữ hoàng Elizabeth II nước Anh từng lặn lội đến thị trấn Toba nhỏ bé
này để viếng xưởng ngọc trai Mikimoto. Khi bước
vào Viện Bảo tàng Trân châu Mikimoto tại thị trấn Toba, điều tôi
muốn biết là cái nhân h́nh cầu làm từ chất liệu ǵ, phải chăng từ
plastic? Tôi được cô chuyên gia của Viện trả lời rằng, "Công
ty chúng tôi không dùng plastic làm nhân mà chỉ dùng vỏ của con hàu
nước ngọt sông Mississippi tại Mỹ. Sau đó gia công thành h́nh cầu
hay các dạng khác nhau", "Tại sao phải là hàu Mississippy?",
tôi hỏi tiếp. Câu trả lời rất đơn giản, "Tại v́ con hàu này có vỏ
dày nhất trong các loại hàu". Bề dày vỏ hàu
sông Mississippi có thể đạt đến 15 mm và cũng là giới hạn của đường
kính ngọc trai. Tôi rất thú vị với câu
trả lời, v́ việc dùng vỏ con hàu Mỹ làm nhân cho con hàu Nhật phủ
lớp xa cừ tạo ra ngọc trai là một phương pháp công nghệ sinh học rất
độc đáo. Nó là vừa là công nghệ "xanh" (green technology) vừa
mô phỏng thiên nhiên giống như con bào ngư
phủ lên những lớp xa cừ (mother-of-pearl) nhiều màu sắc ở mặt sau vỏ
của nó. Phương pháp "xanh" v́ nhân cũng là nhân
"đồng loại". Sự kết hợp giữa lớp xa cừ và bề mặt nhân là sự
kết hợp bền vững có tính tương thích sinh học (bio-compatibility) và
có lẽ rất khác nếu nhân là các loại plastic tầm thường!
Số cung của con hàu vỏ dày sông Mississippi một ngày nào đó sẽ không
c̣n bắt kịp với số cầu, chuỗi cung ứng sẽ đứt đoạn.
Tôi ṭ ṃ hỏi cô chuyên gia, nếu không là
plastic th́ công ty Mikimoto đă có vật liệu nhân tạo tương đương ǵ
để thay thế? Cô ta nhoẻn miệng cười duyên, nói nhỏ "Bí
mật công ty!".

Ngọc trai thành h́nh trong con hàu, mũi tên chỉ vị
trí của hạt ngọc trai.
Mẫu trong bảo tàng viện. (Ảnh: Truong)

Ngọn tháp làm bằng 13.000 hạt ngọc trai đươc trưng
bày trong bảo tàng viện.
Nếu mỗi hạt trị giá $10 USD, th́ giá của ngọn tháp ít nhất là
$130.000 USD. (Ảnh: Truong)
Linh địa Nhật Bản: Ise và Koyasan
Thần xă/thần cung (đ́nh thần) là nơi thờ thần
theo Shinto (Thần đạo). "Thần" có ư nghĩa "đa thần" mang tính
bộ lạc nguyên thủy của thuở hoang sơ, có thể là thần đất, thần cây,
thần đá, thần suối v.v… Thần xă lớn nhỏ xuất hiện rất nhiều từ nam
chí bắc. Nước Nhật thờ nhiều thần mang nhiều tên, có thần ban
phước lành thi đỗ, ban hạnh phúc lứa đôi, ban sự may mắn làm
ăn phát đạt, giao thông an toàn. Muốn
được ban ǵ th́ có thần đó. Cũng có những vị tướng thời cận đại lập
chiến công hiển hách (gồm cả việc xâm lược nước ngoài) cũng trở
thành "thần", thậm chí cả những tội phạm chiến tranh trong Thế chiến
thứ 2 như Thủ tướng Tojo Hideki bị quân đội Đồng minh treo cổ cũng
được thờ như một "á thần" trong Yasukuni Jinja (Tĩnh quốc Thần xă).
Cách thị trấn Toba 20 km là thành phố Ise.
Gần đó là Thần cung Ise, một quần thể 125 đ́nh
thần tọa lạc trong một khu rừng có diện tích 5000 hecta với những
cây tuyết tùng cao vút có số tuổi hàng trăm năm. Nơi này là
linh địa và cũng là linh hồn của đất nước Nhật Bản. Khi đi vào quần
thể này, người viếng phải cúi đầu trước khi bước qua cầu Uji bắt
ngang ḍng sông Isuzu. Khi ra về cũng phải quay
người lại kính cẩn cúi đầu từ giã. Con sông tượng trưng cho
đường ranh phân biệt giữa cuộc đời thế tục và chốn linh thiêng.
Trong quần thể Thần cung Ise có một thần cung
chính đầu tiên được lập ra và tồn tại 1500 năm tại khu vực trung tâm
gọi là Naiku (Nội cung). Thần cung này
thờ vị thần linh thiêng nhất là Thái dương Thần nữ (Amaterasu-Omikami).
Gọi là "Thần cung" nhưng đó chỉ là một căn nhà nhỏ vài ba gian lợp
mái tranh. Nó linh thiêng đến độ người viếng
được yêu cầu không được chụp ảnh. Thần
đạo tin rằng thiên nhiên có sinh có tử, vô thường và vạn vật luân
chuyển cái mới thay cái cũ. Cho nên, nơi
thờ Thái dương Thần nữ từ xưa cứ mỗi 20 năm phải phá hủy và xây lại
cùng lúc với cầu Uji. Dù là một di tích
cổ đại người viếng không khỏi thất vọng khi nh́n một kiến trúc linh
thiêng nhất Nhật Bản nhưng không hơn 20 tuổi đời.
Cũng v́ điểm này Thần cung Ise không đạt tiêu
chuẩn cho danh hiệu Di sản Thế giới.

Cổng "Thần cung", bên trong là đền thờ Thái dương
Thần nữ.
(Ảnh: Truong)

Đền thờ Thái dương Thần nữ được xây lại mỗi 20 năm.
(Nguồn: Wikipedia)
Thị trấn Koyasan (Cao Dă Sơn) cách thành phố Ise khoảng 100 km đường
chim bay. Koyasan là
một cao nguyên cao hơn mặt biển 800 m không khí trong lành, tọa lạc
gần trung tâm của bán đảo Kii. Nếu từ Ise đi
theo đường thẳng th́ phải lái xe trên
những con đường nhỏ ngoằn ngoèo xuyên qua rừng núi um tùm của công
viên quốc gia Yoshino Kumano. Cách an
toàn hơn là đi đường ṿng sử dụng cao tốc để tới Koyasan. Thị trấn
này là trung tâm Phật giáo Mật tông do đại sư Không Hải lập ra 1200
năm trước.
Hoằng Pháp đại sư Không Hải sinh năm 774 thuộc thời kỳ Nara trong
lịch sử Nhật Bản cùng lúc với thời Mạt Đường tại Trung Quốc [1]. Hơn
100 năm trước đó, Đường Tam Tạng Trần Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh
kinh và để lại những bản dịch đồ sộ của những bộ kinh Phật giáo từ
tiếng Phạn (Sanskrit) sang tiếng Hán. Tiếng lành
đồn xa. Người Nhật đương thời sang Trung Quốc du học thành
một phong trào. Họ mượn tiếng Hán làm giàu văn
tự Nhật và cùng lúc tu học kinh điển Phật giáo qua những bản dịch.
Thành quả cuộc dịch thuật đă tạo thêm 3 vạn từ
mới làm giàu Hán tự. Tiếng Phạn vô h́nh trung đă có ảnh hưởng
sâu rộng đến tiếng Hán cổ và hiện đại, thậm chí đến triết học và thi
văn Trung Quốc. Phật giáo khởi nguyên từ Ấn Độ nhưng suy yếu trong
xă hội Ấn. Những vị sư Ấn phải đến Trung Quốc và các nước Đông Nam Á
trong đó có Giao Châu (Việt Nam) tha phương truyền giáo. Sự đi lại
nhộn nhịp giữa Trung Quốc và xứ Thiên Trúc (Ấn Độ) của các tăng sĩ
Ấn – Trung kéo dài hàng trăm năm. Tư tưởng Phật
giáo nảy mầm trong vùng đất ph́ nhiêu của Bách gia Chư tử cùng ḥa
đồng với tư tưởng cổ đại Nho giáo và Đạo giáo đã h́nh thành nên một
trong những nền văn minh rực rỡ của nhân loại. Sư Ấn Độ t́m
được nơi đất lành chim đậu; sư Trung Quốc không ngại gian
nan đi đến Thiên Trúc t́m đến nguồn gốc
Phật học. Trong những nỗ lực phi thường này,
không phải chỉ có Đường Tăng mà c̣n có nhiều tăng sĩ trước và sau
ông vượt thiên lư t́m Phật [2]. Có người may mắn được trở về
dù thành quả không bằng Đường Tăng; có người hy sinh mạng sống trên
đường thiên lư không bao giờ thấy lại cố quốc.
Có thể nói đây là một cuộc giao lưu tôn giáo vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử loài người.
Không Hải sinh ra trong một gia đ́nh trí thức hào tộc địa phương có
người cậu làm quan trong triều đ́nh.
Năm 18 tuổi ông được cậu đưa vào Đại học ở kinh đô cùng học với con
cháu quý tộc để ra làm quan. Khái niệm "Đại học" lúc đó khác thời
hiện đại và chỉ là nơi rèn luyện theo
kinh điển Khổng Mạnh như mẫu mực đối với giai cấp quan lại thời bấy
giờ. Không Hải nhờ vậy tinh thông Hán học, từ năm 18 tuổi ông đọc
những kinh điển về Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo.
Ông học được hai năm tại Đại học th́ bỏ học v́
ông không thấy giá trị của Nho giáo, nó chỉ lặp lại triết lư thánh
hiền nhàm chán, không có giá trị thực tiễn.
Ông xuất gia năm 20 tuổi (793) lấy phật hiệu là
Không Hải để nghiên cứu Phật pháp và tu tập cứu độ chúng sinh.
Năm 24 tuổi ông viết bài tham luận đầu tay
"Tam giáo chỉ quy" phân tích những ưu nhược điểm trong Nho, Đạo và
Phật giáo. Kết luận của ông là không theo
Nho giáo và Đạo giáo và cho rằng chỉ có Phật giáo mới có một hệ
thống tư tưởng ưu việt nhằm giải thoát con người ra ngoài bể khổ
trầm luân. Bộ kinh Đại Nhật của Mật giáo (Mật tông), có ảnh hưởng
lớn đến ông, vốn là kinh điển Phật giáo chính thống xuất phát từ Ấn
Độ được dịch ra tiếng Hán và truyền sang Nhật Bản. Nhưng ông vẫn
chưa bằng ḷng với sự hiểu biết của ḿnh về Mật giáo nên quyết tâm
sang Trung Quốc du học.
Năm 30 tuổi Không Hải đi theo thuyền của
sứ đoàn Nhật có hàng trăm người sang Trung Quốc. Mỗi chuyến đi không
phải chỉ cho vấn đề ngoại giao mà có mục đích quan trọng hơn là t́m
hiểu văn hóa, hành chính, thiết kế đô thị của Trung Quốc, đặc biệt
đối với các tăng sĩ là mang các bộ kinh Phật về Nhật. Đoàn gồm 4
chiếc thuyền, ông đi cùng với vị đại sứ trên chiếc thứ nhất. Trên
chiếc thứ hai có một vị đại sư tên là Tối Trừng cũng sang Trung Quốc
du học. So với sư Tối Trừng, Không Hải lúc đó
chỉ ở bậc học tṛ. Khi trở về Nhật, Tối
Trừng trở thành đại sư lập ra Thiên Thai tông tại Nhật.
Đương thời, con đường biển an toàn đến Trung Quốc là đường ven
theo bờ tây nước Triều Tiên rồi băng
ngang biển Hoàng hải cặp bến bán đảo tỉnh Sơn Đông. Nhưng khi
đó Nhật Bản có xích mích ngoại giao với xứ Tân La (Triều Tiên ngày
nay) nên đoàn thuyền của Không Hải phải hướng về phía nam băng qua
biển lớn Hoa đông nhiều sóng gió. Trong chuyến đi này, không may
đoàn thuyền gặp nạn. Chiếc thứ tư bặt vô âm tín.
Chiếc thứ ba quay trở lại Nhật. Chiếc thứ hai chở sư Tối Trừng trôi
giạt vào Minh Châu (Ninh Ba, phía nam Thượng Hải ngày nay). Chiếc
thứ nhất chở vị đại sứ, tùy tùng và Không Hải lênh đênh trên biển 3
tháng và cuối cùng cập bến tại thủ phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến.
Có giả thuyết cho rằng nếu thuyền chở Tối Trừng
và Không Hải bị đắm th́ Phật giáo Nhật Bản ngày nay sẽ ra sao?
Phúc Châu là cảng của một tỉnh lẻ, quan quân
địa phương không quen tiếp đón tàu thuyền quốc tế.
Khi thuyền cặp bến Phúc Châu nhà chức trách sở
tại không cho lên bờ v́ nghi ngờ là thuyền hải tặc. Cả đoàn
người xơ xác vẫn c̣n bàng hoàng v́ trận băo, vừa đến bờ lại bị hăm
he bỏ tù. Khi vị đại sứ gần như vô kế khả thi th́ có người mách với
ông là trong thuyền có một tăng sĩ "vô danh" nhưng văn hay chữ tốt.
Đó là Không Hải. Vị
đại sứ nhờ Không Hải thảo một bức "Thán Nguyện thư" thống thiết kể
lể sự t́nh. Tài năng Hán học của Không
Hải được đem ra thi thố. Bức thư của Không Hải viết theo lối
biền ngẫu Trung Hoa với những câu tán tụng "nhờ ơn trên thánh đức
của Đại Đường Hoàng Đế nên thuyền của tiện dân được trôi giạt đến
nơi này …" chạm đúng tần số của vị quan địa phương. Đọc những
ḍng chữ viết như rồng bay văn chương lưu loát ông quan nhận ngay
người viết không phải là "phường hải tặc", lập tức thay đổi thái độ
lại c̣n sắp xếp phương tiện di chuyển miễn phí đưa cả đoàn đến kinh
đô Trường An (Tây An ngày nay) cách Phúc Châu gần 2000 km. Nội dung
bức "Thán Nguyện thư" vẫn c̣n lưu trữ cho đến ngày nay.
Khi Không Hải đặt chân đến Trường An, th́
nhà Đường đă qua đỉnh của thời kỳ "Thịnh thế" nhưng Trường An vẫn
là thành phố quốc tế nơi tập hợp những tinh hoa văn hóa khắp nơi.
Phật giáo vẫn thịnh hành và các tăng sĩ được triều đ́nh trọng vọng.
Tại Trường An, Không Hải làm đệ tử của
đại sư Huệ Quả. Huệ Quả nổi tiếng là vị đại sư Chân ngôn Mật giáo
thời bấy giờ, nguyên là đệ tử và cũng là học tṛ tiếng Phạn của sư
Bất Không người Ấn Độ. Các đại sư Ấn đến Trung Quốc không những là
nhà truyền giáo uyên thâm mà c̣n là nhà ngôn ngữ học xuất sắc. Sư
Bất Không, sau này được xem là Lục tổ Mật giáo, thông thạo tiếng Hán,
dịch kinh Mật giáo truyền bá khắp nơi tại Trung Quốc. Khi Không Hải
gặp Huệ Quả th́ sư đă có hàng ngàn đệ tử và sư Bất Không đă qua đời
nhưng ông may mắn được thọ giáo tiếng Phạn từ một vị sư Ấn Độ khác.
Sau 2 năm du học, bằng sự thông minh trác tuyệt Không Hải nhanh
chóng tiếp thu Phật học, trở nên một đệ
tử hàng đầu của đại sư Huệ Quả và được sư phụ khuyên trở về nước
hoằng dương đạo pháp. Sau đó không lâu, Huệ Quả
viên tịch. Về nước, Không Hải nhận được
sự trọng vọng của triều đ́nh Nhật Bản và trở thành người bạn thi văn
thân thiết của Thiên Hoàng Saga đương thời.
Gần 20 năm sau ông được Thiên Hoàng cho phép sử
dụng vùng đất Koyasan để xây tự viện làm trung tâm tu tập cho Chân
ngôn Mật giáo tông.
Đi vào đây chúng ta phải bước qua cổng Đại môn.
Ba chữ Hán "Cao Dă Sơn" (Koyasan) treo trên cổng
là bút tích của Không Hải. Koyasan lúc
xưa là nơi thâm sơn cùng cốc, rừng linh núi thiêng của một chốn thần
tiên. Giờ đây, Koyasan của những tự viện
có hàng trăm năm tuổi vẫn là nơi thâm sơn cùng cốc cách biệt với
những thị trấn thế tục bên ngoài. Lẩn khuất trong rừng cây
tuyết tùng cao vút xanh tươi được chấm phá bởi những tàn lá phong đỏ
là những ngôi miếu nhỏ, ngọn tháp cao cao, cây cầu gỗ sơn màu đỏ cam
phản chiếu xuống mặt hồ phẳng lặng trong tia
nắng nhẹ chiều thu. Đâu đó tiếng chuông chùa
ngân vang từ một ngôi chùa ḥa lẫn với tiếng nước chảy róc rách từ
một nguồn suối nhỏ. Những tiếng động nhẹ nhàng của nước len
lỏi trong rừng cây được tô điểm bằng màu xanh của bầu trời, màu đỏ
của lá thu và màu sơn của các kiến trúc
con người như muốn khuấy động sự trầm lắng của khoảng không gian
thoảng mùi thiền. Koyasan là nơi biểu hiện của
linh hồn Nhật Bản dường như c̣n giữ được cái thần bí xa xưa trong
màu sắc thời hiện đại.

Đại môn "Cao Dă Sơn" với bút tích của Không Hải.
(Ảnh: Truong)

Trung tâm thị trấn Koyasan trong buổi chiều
thu êm ả. (Ảnh: Truong)

Đại tháp nơi tu tập đạo pháp là biểu tượng của Chân
ngôn Mật giáo
do Không Hải lập nên tọa lạc tại trung tâm thị trấn Koyasan. (Ảnh:
Truong)
Tôi qua đêm tại một ngôi chùa cổ hàng trăm năm.
Chùa được bao quanh bởi ngôi vườn Nhật Bản với những bụi kiểng được
tỉa cắt tỉ mỉ tạo ra nhiều h́nh dáng khác nhau mà từ xa trông giống
như ḥn giả sơn phủ đầy cỏ. Dọc theo
đó là cái hồ dài như một ḍng sông nhỏ. Một thiết kế đ́nh viên đặc
thù Phù Tang nhưng nó sẽ trở nên bất động và lạnh lẽo nếu không có
những con cá koi ngụp lặn trong hồ nước, cái hành lang gỗ và
những chiếc lồng đèn hoa sen làm bằng đồng đen treo dưới mái hiên
chùa đong đưa trong làn gió.

Một góc trong ngôi chùa cổ.
(Ảnh: Truong)
Phần lớn 120 tự viện tại Koyasan có hoạt động kép: tu tập và cung
cấp dịch vụ tá túc như một lữ quán (ryokan).
Không có nơi nào trên nước Nhật có mật độ tự
viện cao như Koyasan, và từ khi trở thành Di sản Thế giới các chùa
chỉnh trang lại để đáp ứng nhu cầu của khách thập phương.
"Ngủ chùa" (shukubo) có lịch sử hàng trăm
năm. Một phương cách tạo cho chùa nguồn
tài chính bền vững và tự chủ mà không cần dựa vào sự tùy hỷ của
thiện nam tín nữ. Phục vụ của chùa cũng
tương đương với một lữ quán "thế tục" cao cấp có suối nước nóng (onsen),
tiếp đăi ân cần, đầy đủ mọi tiện nghi. Chỉ khác với lữ quán
thường là thức ăn chay và mỗi buổi sáng
từ 6 giờ là giờ tụng kinh 1 tiếng đồng hồ. Khách
trọ được khuyến khích tham gia. Thức ăn
không phải là các món "chay giả mặn" mà thuần chay khó nuốt. Mỗi thứ
một chút được trang trí nhiều màu sắc rất đẹp, nhưng nh́n kỹ th́ chỉ
loanh quanh vài món chính như củ cải trắng được làm chua khác nhau
nên màu sắc khác nhau, cà pháo, nấm, khoai, gừng cay ướp đỏ, súp đậu
hủ được phủ với vài khoảnh cà rốt mềm, vài miếng đậu hủ, hành tây
sắc mỏng. Thức ăn được để trên chiếu
tatami, lúc ăn phải khom người khoanh chân trong tư thế ngồi
thiền. Cả pḥng ăn có gần 10 thực khách phần lớn là các ông Tây bà
Tây ngồi ăn im ĺm, chỉ nghe tiếng khua của chén đĩa.
Mật giáo không chủ trương "khổ hành ép xác" để
đạt đến giác ngộ. Nhưng đối với những kẻ phàm phu thích những
thứ "mặn mà" th́ ngồi ăn chay kiểu Nhật là một việc "khổ hành", e
rằng dù làm hành giả tu tập nhiều năm cũng khó vượt qua vũ môn của
giác ngộ!

Buổi cơm tối tại chùa.
(Ảnh: Truong)
Cách trung tâm thị trấn Koyasan vài cây số là một nghĩa trang ngàn
năm có tên gọi là Oku-no-In (Thánh địa).
Năm ông 62 tuổi, Không Hải viên tịch.
Chân ngôn Mật giáo tin rằng ông không qua đời mà chỉ ngồi thiền miên
viễn trong một lăng miếu (Lăng Không Hải) thờ ông tại Oku-no-In.
Khởi đầu từ lăng miếu là một con đường hẹp dài 2 km xuyên qua Thánh
địa mà hai bên đường nhấp nhô những tháp mộ cao thấp khác nhau thấp
thoáng trong rừng cây um tùm của những đại thụ hàng trăm năm tuổi
nơi chôn tro cốt của các Phiên chủ (Lănh chúa), chiến tướng, cao
tăng, văn thi hào, nhân vật lịch sử lừng danh từ thời đại Nara (thế
kỷ 8). Những ngôi mộ ở đây là 5 khối đá được khắc chạm thành 5 h́nh
dạng khác nhau chồng lên nhau tượng trưng cho "ngũ đại": địa, thủy,
hỏa, phong (gió) và không. Có bia được khắc bằng chữ Hán cũng có bia
bằng chữ Phạn. Một điều thú vị khi chữ Phạn được viết bằng bút lông
th́ nó toát ra vẻ đẹp uyển chuyển như chữ Hán.

Tro cốt được đặt dưới mộ xây bởi 5 khối đá có h́nh
dạng khác nhau
(khối, cầu, tháp bốn cạnh, trụ) tượng trưng cho: địa, thủy, hỏa,
phong và không.
Hai tượng nhỏ mặc áo đỏ là Thổ địa. (Ảnh: Truong)

Chữ Phạn viết bằng bút lông.
(Ảnh: Truong)
"Ngũ đại" của Mật giáo liên hệ đến vũ trụ quan của Ấn Độ cổ đại.
Người Ấn Độ cho rằng vũ trụ được tạo nên bởi 4 yếu tố "tứ đại"
theo thứ tự: địa, thủy, hỏa, phong. Sau
đó, "tứ đại" được thêm vào yếu tố "không" v́
theo kinh Phật th́ "tứ đại" đều quy về một nguồn là "không".
Tôi xin tản mạn đôi điều ở đây về Phật học và
khoa học. Việc liên kết "tứ đại" với "không" rất khó lư giải
và khập khiễng khi nh́n từ lăng kính lôgic của khoa học hiện đại v́
"không" của khoa học đơn giản chỉ là "chân không" hay "không gian",
không bao hàm ư nghĩa triết học. "Không" của
Phật giáo là "tánh Không" "vô ngă" hàm ư lưỡng tính không - sắc;
"không tức thị sắc, sắc tức thị không".
Trong "không" chứa "sắc" và ngược lại.
"Sắc" là vật chất biểu hiện bởi "tứ đại".
Trong khoa học có cũng lưỡng tính.
Đó là lưỡng tính sóng - hạt của cơ học lượng tử.
"Sóng" có thế xem như là "không"; "hạt" như là "sắc".
Lưỡng tính "không – sắc" của Phật giáo bao quát mọi sự, từ tâm linh
đến vật chất, từ thế giới vi mô kéo dài
đến vĩ mô. Nhưng lưỡng tính sóng - hạt chỉ hiện hữu ở trạng thái
vi mô của nguyên tử phân tử.
Phật giáo mang tính tổng thể nhưng không thể nói
khoa học là trường hợp đặc thù của Phật giáo.
Bởi lẽ, giữa Phật giáo và khoa học có nhiều điểm
tương tự, nhưng bản chất không giống nhau.
Lưỡng tính sóng – hạt và lưỡng tính không – sắc
là một ví dụ và chỉ là sự tương tự có tính ngẫu nhiên.
Nói rơ hơn, triết học Phật giáo với khoa học có những khái niệm
trùng hợp nhưng chỉ ở phạm trù vật chất.
Lư luận khoa học cũng có nhân quả, có duyên khởi,
có vô ngă vô thường, nhưng đối tượng khoa học không bao gồm linh hồn,
tâm linh và tái sinh luân hồi. Phật giáo
là định tính có chân lư hầu như bất biến. Khoa học là định
lượng dùng thực nghiệm và toán học như một công cụ suy luận với
những định luật khả biến với thời gian theo
sự triển khai của trí tuệ con người. Phật giáo
là hệ thống triết học của một tôn giáo, trong khi khoa học là hệ
thống học thuật t́m hiểu tự nhiên. Phương
pháp của khoa học là thực nghiệm; phương pháp của Phật học là
kinh nghiệm. Thực nghiệm mang tính
phổ biến khách quan, có hệ thống, mang tính lặp lại
(reproducibility). Kinh nghiệm mang tính
cá thể, có ít nhiều chủ quan. So sánh
giữa Phật giáo và khoa học v́ vậy cần có sự chọn lọc.
Dù sao, sự tương đồng trong tư duy Phật học và khoa học đă đưa Phật
giáo đến gần khoa học hơn bất cứ mọi tôn giáo nào khác.
T́nh cờ tôi nghe
được bài giảng của thiền sư Thích Nhất Hạnh bàn về tướng (相).
Mọi vật và đối tượng đều có "tướng", nghĩa là
biểu hiện ngoại h́nh. Nhưng tướng
có tính chất lừa dối, là hư vọng. Khi ta nh́n một đối tượng
th́ tâm (心)
của ta sẽ nắm bắt tướng của đối tượng đó cho ta tưởng
(想)
(ư tưởng), cũng như cách chiết tự trong tiếng Hán là chữ "tưởng" do
hai chữ "tâm" và "tướng" gộp lại (相+心
=
想).
Thật tuyệt vời, v́ không có cách nào diễn tả
tượng h́nh và dễ hiểu hơn phương pháp chiết tự.
Khi có tướng th́ đă có sự lừa dối khiến
ta "tưởng bậy" mắc sai lầm, chủ quan. Cho nên giáo lư Phật
giáo dạy rằng ta cần có con mắt quán chiếu dùng chánh niệm để hiểu
rơ thực chất của đối tượng. Rơ ràng, đây là phương pháp luận khoa
học. Trong nghiên cứu khoa học, quan sát là khởi
điểm để khảo sát "tướng" của sự vật.
Nhưng "tướng" có thể "vậy mà không vậy".
Nhà khoa học cần làm thực nghiệm và suy luận toán học để có chánh
niệm quán chiếu hiểu đúng bản chất của tự nó.
Trở lại với thế giới quan Phật giáo, Mật giáo thêm vào yếu tố tinh
thần là "thức" (ư thức) tạo nên "lục đại": địa, thủy, hỏa, phong,
không, thức.
Không Hải đă cảm nhận được rằng nếu ta biết dung hợp và thông hiểu
tất cả yếu tố trên, tinh thần ta sẽ trở nên ung dung tự tại.
Khi đó, "Phật phàm nhất như", Phật nhập
vào (người) phàm, phàm nhập vào Phật ḥa nhau thành một khối.
Để "phàm nhập vào Phật", Mật giáo không quan niệm phải "khổ hành" mà
chỉ cần phát tâm Bồ đề, con tim sẽ t́m
được đến sự giác ngộ. Khi đạt đến giác ngộ, tâm
đại từ đại bi sẽ xuất hiện. Tâm Bồ đề là cái "nhân" phát sinh
tâm từ bi là "căn" rồi từ đó con người tự nhiên tự tại trưởng thành.
Vậy, "giác ngộ" là ǵ?
Trong cuốn sách nhỏ của ông khi nói về sự "giác
ngộ" [1], tác giả Hiro Sachiya kể lại một mẩu chuyện nhỏ về lần gặp
gỡ với người bạn Ấn Độ. Ông bạn này bảo tác giả rằng, "Anh Hiro,
chắc anh biết là Phật giáo là tôn giáo dạy lời của Buddha".
"Đúng vậy".
Ông nói tiếp, "Và anh cũng biết là đồng thời
Phật giáo cũng dạy sao cho chúng sinh thành Buddha".
"Đúng luôn". "Như vậy, tôi hỏi anh chúng
ta cần bao nhiêu năm tu hành mới đạt đến Buddha?".
Tác giả Hiro muốn nhấn mạnh sự lâu dài nên nghĩ
ra một con số, "Để thành Buddha chúng ta cần một thời gian rất
lâu. Hmmm…ít nhất cũng phải là năm mươi sáu ức bảy
ngàn vạn năm!". Ông bạn mỉm cười nói,
"Nhưng mà anh Hiro à, mỗi buổi sáng thức giấc tôi đều "buddha"
đấy".
Tác giả Hiro nghe xong hơi bực ḿnh v́ cảm thấy cụm từ linh thiêng "buddha"
sao lại có ư nghĩa phàm tục như thế.
Nhưng khi ông t́m hiểu nghĩa "buddha" trong
tiếng Phạn th́ ông vở lẽ. "Buddha" có
nghĩa là "mở mắt" được dịch thành tiếng Hán là "Phật đà".
Mỗi buổi sáng sau giấc ngủ ai cũng phải
"phật đà", mở mắt tỉnh giấc. Trong nghĩa rộng hơn, sau cơn mê thế
tục ta "buddha". Ta "giác ngộ" bởi "phật
đà".
Thánh địa Oku-no-In có 200.000 ngôi mộ.
Nhưng chúng không cho ta cảm giác âm u ma quái
của những nghĩa trang b́nh thường. Mà nó đưa ta vào những
trang sách sử hưng phế của nhiều thời đại như một thiên trường ca
trong đó nhân vật diễn xuất giờ đây chỉ là những ngôi mộ nghiêng ngả,
phủ đầy rêu phong trên đó những hàng chữ khắc vào
bia đă mờ theo năm tháng. Đây là ngôi mộ
của một vị đại tăng có công lao tạo ra một tông phái Phật giáo Nhật
Bản, kia là mộ của ḍng họ Tokugawa có công lớn mở ra thời đại Edo
ḥa b́nh gần 270 năm, gần đó là tháp bia của một Hoàng hậu, xa xa là
tấm bia tưởng niệm những oan hồn tử sĩ trong chiến tranh Triều –
Nhật (1597) do Tướng quân Toyotomi Hideyoshi phát động. Tiếng vó
ngựa, tiếng rổn rảng gươm đao của một thời chiến loạn; tiếng hát
những bài dân ca vang lên trong lễ hội matsuri cầu mưa thuận
gió ḥa của thời thái b́nh thịnh trị mà những kẻ đă tạo ra chúng đă
lùi xa vào quá khứ và giờ đây chỉ c̣n là sự tĩnh mịch của những ngôi
mộ đá sừng sững vô tư thách thức với thời gian.
Nửa đường trên con đường đến Lăng Không Hải, tôi phát hiện mộ phần
của Tướng quân Oda Nobunaga. Cạnh đó là mộ phần
của gia tộc Tướng quân Toyotomi Hideyoshi. Hai anh hùng thống
nhất Nhật Bản vào thế kỷ 16 chấm dứt thời đại Chiến quốc, có tầm vóc
như Quang Trung Nguyễn Huệ và Trần Hưng Đạo. Oda
là chủ tướng của Toyotomi, người thuộc hạ trung tín tài ba từng ôm
dép Oda vào ngực sưởi ấm cho đôi bàn chân của Oda trong những ngày
đông giá buốt. Khi Oda gần thống nhất đất nước th́ không may
trong một chuyến du hành một thuộc hạ tập kích bức tử ông.
Toyotomi nhanh chóng tiêu diệt kẻ thuộc hạ phản
phúc rồi thay Oda lên làm chủ tướng quy thiên hạ về một mối hoàn
thành sự nghiệp thống nhất đất nước.
Toyotomi muốn chứng tỏ trước thiên hạ ông là một chiến lược gia tài
ba, ông đóng bản doanh ở thành Osaka thành lập bộ chỉ huy nhằm thực
hiện mưu đồ đế quốc. Phía tây ông dọa dẫm
Triều Tiên, Minh Quốc (nhà Minh, Trung Quốc).
Phía nam ông thèm muốn Đài Loan và Lữ Tống (đảo
Luzon, Philippines). Một năm sau khi
thống nhất Nhật Bản, Toyotomi cử đại quân vượt biển thần tốc chiếm
đóng Triều Tiên (1597) [3].

Mộ phần của Tướng quân Oda Nobunaga.
(Ảnh: Truong)

Mộ phần của Tướng quân Toyotomi Hideyoshi
và gia tộc.
(Ảnh: Truong)
Hơn 400 năm sau, hai anh hùng Nhật Bản vẫn nằm cạnh nhau trong Thánh
địa Oku-no-In. Mộ phần của Oda Nobunaga nhiều lắm 2 m2
đất. Mộ phần của Toyotomi không hơn 15 m2.
Hai mộ phần mốc thếch, khiêm tốn lặng lẽ, không khoa trương đ́nh đám,
không bông hoa, hương khói ngột ngạt đèn đuốc lung linh và hiểu
theo đúng nghĩa đen không bằng một góc
lăng của các vị chủ tịch nước ngày nay.
Oku-no-In có khu đất dành cho mộ của các đại gia hiện đại như ông
chủ hăng cà phê UCC lớn nhất Nhật Bản, các CEO của hăng
xe Nissan, công ty Panasonic v.v… Cũng
như các ngôi chùa tại Koyasan, Oku-no-In cũng cần thu nhập cho việc
duy tŕ bảo quản. Sự trao đổi diễn ra dưới h́nh thức cúng dường (hono,
phụng nạp) và có lẽ một tấc đất ở đây quư giá hơn vàng và hơn nhiều
lần số tiền phải chi trả ở Los Angeles, New York hay Paris.
Người Nhật kính trọng và ái mộ Không Hải không chỉ vì ông là một
đại sư mà c̣n là một người đa tài xuất chúng có nhiều đóng góp trong
lĩnh vực văn hóa và tư tưởng.
Ông đi nhiều nơi trên nước Nhật để hoằng dương đạo pháp đồng thời
chung vai sát cánh giúp đỡ người dân. Ông
đến đâu cũng được dân dựng bia kỷ niệm và
tên tuổi ông đi vào văn chương b́nh dân và ca dao tục ngữ. Không
những ông viết văn hay ông c̣n nổi tiếng viết chữ đẹp.
Trong tục ngữ Nhật
có câu, "Kobo fude o erabazu"
(弘法筆を選ばず).
"Viết đẹp như Hoằng Pháp th́ không cần chọn bút", hiểu rộng hơn là "Người
giỏi th́ trong t́nh huống nào cũng cho kết quả tốt".
Một tục ngữ khác là
"Kobo nimo fude no ayamari"
(弘法にも筆の誤),
có nghĩa "Đến như Hoằng Pháp th́ viết cũng c̣n sai".
Ư nói dù tài
năng bao nhiêu th́ cũng có lúc sai.
Trong cuộc sống thường nhật, người Nhật hiện đại rất thực tế, xử sự
như kẻ "vô thần" không bàn luận đến đức tin hay có hành xử dựa trên
những tín điều tôn giáo. Nhưng khi kết hôn, họ
đến thần cung để được các vị thần dù mơ hồ danh tính ban phước lành
được hạnh phúc trăm năm. Khi ĺa đời, tro
cốt của họ mang tới chùa để được siêu thoát ở cơi Niết Bàn.
Người Nhật có phong cách riêng của họ, cái mà
tôi gọi là "tinh thần Nhật bản". Họ khiêm
cung lễ độ nhưng không khúm núm rụt rè. Họ có thể bất đồng
với nhau nhưng nhă nhặn t́m cho nhau một điểm
chung ḥa đồng. Họ không nh́n quá khứ để nức nở tự hào về
những thành tựu hay "bản sắc dân tộc", nhưng họ nh́n vào thiếu sót
quá khứ để khắc phục những bất cập tương lai trong tinh thần
kaizen (cải thiện).
Lời kết
Trong chuyến đi này, Mikimoto Kokichi và Hoằng Pháp đại sư Không Hải
là hai nhân vật đă để lại cho tôi nhiều ấn tượng.
Thời đại hai người cách nhau hơn một thiên niên
kỷ nhưng tinh thần Nhật Bản vẫn như nhau. Những con người như
Mikimoto Kokichi vừa là một nghệ nhân vừa là một nhà nghiên cứu ṛng
ră 12 năm để hoàn thiện những hạt ngọc làm đẹp phụ nữ, đă thể hiện
được tinh thần kaizen vốn có trong huyết quản người Nhật.
Mikimoto Kokichi cũng như Yamaba Torakusu (Yamaha) là những bậc tiền
bối tiêu biểu trong ngành sản xuất công nghệ Nhật được nối tiếp bởi
Matsushita Konosuke (Panasonic), Honda Soichiro (Honda) và Morita
Akio (Sony). Họ hănh diện về sản phẩm của ḿnh
đặt sự bền đẹp sản phẩm, lợi ích của khách hàng trước lợi nhuận cá
nhân.
Không Hải là vị Phật sống trong thời đại của ông và cũng là một mẫu
mực cho ḥa thượng các đời sau.
Ông thiết lập nền tảng vững chắc cho Phật giáo Nhật Bản và đưa Phật
giáo đi sâu vào tâm thức người dân vừa đóng góp cho lư thuyết Phật
học qua các bài viết vẫn con lưu truyền đến ngày nay.
Nhật Bản đi đến đâu cũng nh́n thấy đ́nh thần và
chùa chiền. Bản chất Thần đạo là đa thần
giáo. Hơn một ngàn năm qua, Thần đạo và Phật giáo cùng tồn
tại hài ḥa và song hành theo triết lư chữ "Ḥa" trong đời sống tinh
thần của người Nhật. Thậm chí, khi Không Hải bắt đầu xây các tự viện
tại Koyasan ông cũng dựng lên một đ́nh thần.
Không Hải có mê tín thần linh hay chăng? Ông là một người trí
thức có tư duy phân tích khoa học, là một vị đại sư dẫn dắt chúng
sinh thoát khỏi sự "mê muội" trần thế, vậy bản thân ông không hề mê
tín. Ông theo truyền thống của chữ "Ḥa"
lập đ́nh thần để biểu hiện sự tôn trọng đối với người bản địa và tôn
vinh sự hài ḥa tôn giáo.
Cuối cùng, tôi muốn nói đến sự ǵn giữ thiên nhiên của người Nhật.
Từ hậu bán thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 núi đồi nước Nhật không c̣n
nhiều cây cỏ bởi người dân chặt cây rừng làm nhiên liệu. Nhưng các
chính phủ Nhật thời hậu chiến đă nhanh chóng phục hồi cây rừng cho
núi rừng c̣n xanh lá, cho thú rừng quay về chốn cũ, cho chim muông
các loài t́m đến đất lành mang lại sự hài ḥa giữa con người và
thiên nhiên. Lái xe ngang dọc trên bán đảo Kii tôi có dịp đi sâu vào
những sơn đạo nhỏ và đường đèo dọc theo triền núi để từ trên cao
nh́n thấy những rặng núi hùng vĩ xanh ŕ bao quanh cánh rừng bạt
ngàn, tôi thầm phục cách quản lư rừng núi của chính quyền địa phương
và chính phủ Nhật. Ở Singapore, họ cũng trân quư từng tấc đất,
ngưỡng mộ những ǵ mà thiên nhiên ban cho. Họ
làm sạch ḍng sông, tạo những thác nước nhân tạo mô phỏng thiên
nhiên. Quốc đảo đô thị này có vài "mảnh"
rừng nhỏ không to hơn công viên của những đô thị lớn nhưng họ hănh
diện gọi đó là "jungle".
Nhưng ở Việt Nam th́ khác.
Dưới chiêu bài phát triển du lịch, các tập đoàn
tài phiệt phá những cánh rừng già không thương tiếc. Họ xẻ
chúng ra từng mảnh để làm các khu du lịch to lớn, đặt vào đó các
khách sạn 5 sao khổng lồ, dựng lên những lâu đài nhái kiểu
Disneyland vô hồn, lập ḷe ánh sáng, ồn ào các thứ show diễn về đêm,
xây hàng loạt những căn nhà giả cổ kiểu Tây được quảng cáo là "báu
vật đầu tư" hấp dẫn những kẻ dư tiền mua để đó mà không cần người
mướn. Các khu du lịch này hoàn toàn biệt lập với
cộng đồng cư dân địa phương và không mang lại lợi ích ǵ cho dân
nghèo. Sự phân cực giàu nghèo càng gay
gắt. Khi có kẻ giàu quá mức trong lớp vỏ hợp pháp th́ nảy
sinh một số rất lớn người nghèo quá mức dật dờ kiếm sống để trả giá
theo quy luật bù trừ kinh tế. Nói cách
khác, đó chẳng qua là cách phát triển theo
kiểu chủ nghĩa tư bản "hoang dă" nhưng họ gọi đó bằng một cụm từ mỹ
miều có tên là "Xă hội Chủ nghĩa".
Tài liệu tham khảo
1. Những chi tiết về đại sư Không Hải được trích dẫn từ quyển sách
tiếng Nhật có tựa đề "Kukai to Mikkyo" (Không Hải và Mật giáo)
của tác giả Hiro Sachiya (nxb Shodensha, 2015).
2. https://www.erct.com/2-ThoVan/NNT/Chin-Shun-Shin-TNTK.htm
3. http://www.erct.com/2-ThoVan/TruongVTan/Tap-cam-mot-chuyen-di.htm
Những ngày nắng Hạ
12 tháng 2 2023
(Đã đăng trên diendan.org) |