
|
Câu chuyện về sự phát quang
Trương Văn Tân (*)
"Let there be light"
Genesis
(thân tặng TTV)
Trong buổi khai thiên lập địa, Chúa đã phán "Ánh
sáng hãy hiện ra". Và ánh sáng xuất hiện, vì vạn vật không thể sống
với màn đêm. Điều nầy là một sự thật hay chỉ là huyền thoại hoàn
toàn tùy vào đức tin của từng cá nhân. Nhưng có điều chắn chắc rằng
để có các loại ánh sáng như ta đang có hiện nay, con người cần nhiều
ngàn năm để hiểu định luật của thiên nhiên cho việc phát minh và
sáng tạo. Loài người sẽ không hiện hữu và không tiến hóa nếu không
có ánh sáng. Con người đã phát hiện ra lửa, tạo ra lửa và dùng lửa
như một nguồn sáng vào thời tiền sử xa xăm. Trước khi được điện khí
hóa, trải qua hàng ngàn năm và cho đến thập niên 70 của thế kỷ trước
người ta vẫn còn dùng những cây đèn dầu, hoặc sang hơn một chút những
cây đèn "măng xông" rực sáng đốt bằng hơi dầu để xua đuổi màn đêm.
Cuối thế kỷ thứ 19, Thomas Edison tạo ra một cuộc
cách mạng "ánh sáng" qua sự phát minh và hoàn thiện bóng đèn phát
quang nhờ ánh sáng của một điện trở được làm nóng lên khi có một
dòng điện chạy ngang. Cơ học lượng tử xuất hiện cách đây 100 năm đã
thay đổi sự hiểu biết về vật lý của thế giới vi mô. Trong lĩnh vực
phát quang, bộ môn nầy cho ta biết những bước nhảy lượng tử trong
năng lượng, sự di chuyển của điện tử và sự hiện hữu của quang tử (hạt
ánh sáng, photon). Kết quả là người ta có thể tạo ra ánh sáng mà
không cần phải đốt cháy một vật liệu hay làm nóng vật đó lên. Sự
phát huỳnh quang của đèn nê-ông bằng hơi thủy ngân cho muôn màu sắc rực
rỡ ở những chốn phồn hoa đô hội về đêm, là cuộc cách mạng "ánh sáng"
lần thứ hai nhờ vào cơ học lượng tử. Màn hình tivi dùng cực cathode
được phát triển dựa vào những nguyên tắc của sự phát huỳnh quang. Sự
phát quang không dừng ở đây. Màn hình mỏng tinh thể lỏng (liquid
crystal) dùng cho máy vi tính và tivi đang thay thế cho màn hình cổ
điển dùng cực cathode to đùng, nặng nề, tiêu hao nhiều năng lượng.
Con người vẫn chưa thỏa mãn. Sự hiếu kỳ cộng thêm nhu cầu của con người
là một nguyên nhân thúc đẩy con người tìm kiếm những vật liệu phát
quang hữu hiệu hơn. Rồi đây màn hình tinh thể lỏng cũng sẽ được thay
thế bằng màn hình lợi dụng những chất hữu cơ phát quang, rất mỏng và
ít tiêu hao năng lượng.
Trong bài viết nầy chúng ta hãy xem cuộc cách
mạng "ánh sáng" lần thứ ba với các loại đèn dùng chất bán dẫn và các
vật liệu hữu cơ đã và đang được triển khai như thế nào.
Đèn phát quang bán dẫn diode
Các chất hay hợp chất bán dẫn như silicon (Si),
germanium (Ge), gallium arsenide (GaAs) đã khai sinh ra một linh
kiện điện tử quan trọng là transistor vào năm 1947, và cũng là những
vật liệu quan trọng cho việc phát quang "lạnh" (khác với phát quang
nóng do điện trở của Thomas Edison). Vào năm 1962, đèn phát quang
diode (light emitting diode, LED) đã được chế tạo dựa trên nguyên
tắc phát quang điện học (electroluminescence). Được gọi là diode là
vì bộ phận phát quang của đèn được cấu tạo bởi chất bán dẫn giàu
điện tử nối với một chất bán dẫn khác giàu những lỗ trống; những lỗ
trống có thể xem như là hạt mang điện tích dương (+). Gallium
arsenide (GaAs) là một trong những chất bán dẫn đầu tiên được dùng
làm vật liệu phát quang. Chất nầy phát quang màu đỏ và tia hồng
ngoại. Ngày nay, những đèn LED nhỏ cho ánh sáng đỏ đã được thương
mãi hóa và sử dụng rất nhiều trong các máy tính cầm tay
(calculator), đồng hồ v.v... Khó khăn nhất là việc chế tạo đèn diode
màu xanh và màu trắng. Tuy nhiên, kể từ thập niên 90 của thế kỷ
trước hàng loạt những hợp chất bán dẫn đã được chế tạo cho ra đèn
diode phát ánh sáng từ màu đỏ đến màu tím.
Sự ra đời của đèn LED đưa đến sự cáo chung của
đèn bóng Edison. Đèn LED có thể làm nhỏ, tiêu hao ít năng lượng,
hiệu suất phát quang lớn và tuổi thọ dài. Đèn LED có hiệu suất 10
lần lớn hơn đèn bóng và có tuổi thọ kéo dài khoảng 100.000 giờ so
với đèn bóng là 1000 giờ. Hiện nay, ta có thể thấy áp dụng của đèn
diode ở khắp mọi nơi, từ cái đèn pin, đèn nhấp nháy xe đạp, đèn hiệu
ô tô đến những màn hình tivi khổng lồ treo ở các tòa nhà trong thành
phố.
Hiện tượng phát quang điện học xảy ra khi có một
dòng điện chạy ngang diode, một điện tử (điện tích âm) sẽ phối hợp
với một lỗ trống (+); sự phối hợp sẽ làm cho điện tử nhảy từ một mực
năng lượng cao xuống một năng lượng thấp hơn. Quá trình nhảy từ cao
xuống thấp cho ra một năng lượng dư thừa. Năng lượng nầy, tùy theo
khe dải năng lượng (energy band gap) của môi trường bán dẫn, sẽ được
phát tán ra ngoài dưới dạng tia hồng ngoại, ánh sáng thấy được và
tia tử ngoại (còn gọi là tia cực tím) (Hình 1).

Hình 1: Hai dải năng lượng và khe dải. Các điện tử (hạt mang
điện âm (-)) chiếm cứ dải năng lượng thấp. Năng lượng dư thừa do sự
phối hợp điện tử ở năng lượng cao với lỗ trống (+) được biến thành
ánh sáng. Màu (độ dài sóng) của ánh sáng được quyết định bởi trị số
của khe dải.
Xin được mở ngoặc ở đây để nói sơ lược về khe dải
năng lượng. Khe dải năng lượng là một đặc tính quan trọng của chất
rắn. Khe dải không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một tính
chất có thể đo được. Chất rắn là do các tập hợp nguyên tử chồng chập
lên mà tạo thành. Người ta phỏng tính 1 cm3 chất rắn được
1022 (22 số 0 sau số 1, hay là 10 ngàn tỷ tỷ) nguyên tử
tạo thành. Trong qua trình cấu thành nầy, theo cơ học lượng tử,
những mực năng lượng điện tử sẽ được thành hình và các điện tử của nguyên
tử sẽ chiếm cứ các mực năng lượng nầy. Vì số nguyên tử cực kỳ to,
nên số các mực năng lượng cũng to và sẽ tập hợp thành dải năng lượng
điện tử (electronic energy band), tương tự như các trang giấy tập
hợp lại thành một quyển sách. Sự thành hình dải năng lượng của chất
rắn có thể không liên tục, khi đó sẽ có một "khoảng trống" xuất hiện,
giống như cái mương chia ra hai dải (miền) năng lượng (Hình 1).
Khoảng trống đó gọi là khe dải năng lượng. Trị số khe dải được tính
bằng electron volt (eV, 1 eV = 1,602 x 10-12 erg). Khe
dải quyết định sự dẫn điện hay không dẫn điện của chất rắn. Sự dẫn
điện hay không dẫn điện là do khả năng "nhảy mương" của các điện tử.
Nếu điện tử của chất rắn không thể nhảy từ miền năng lượng thấp lên
miền năng lượng cao, ta có vật cách điện. Thí dụ, khe dải của các
loại polymer (plastic) là 3 - 5 eV, của kim cương là 8 eV; cái "mương"
quá rộng để điện tử có thể nhảy qua ở điều kiện bình thường (22 °C,
1 atm). Đây là những vật cách điện tuyệt vời. Ngược lại, khe dải của
kim loại là zero. Điện tử đi lại giữa hai miền năng lượng một cách
thoải mái. Sự dẫn điện xảy ra. Ở giữa hai cực đoan nầy là chất bán
dẫn. Khe dải các chất bán dẫn nằm trong khoảng 1 - 1,5 eV. Như ta sẽ
thấy ở phần sau, khe dải năng lượng là một đặc tính vô cùng quan
trọng của vật chất không những cho điện tính (cách điện, dẫn điện
hay bán dẫn), mà còn trong việc thiết kế một vật liệu trong những áp
dụng quang học, hay quang điện tử (optoelectronics) mà sự phát quang
là một thí dụ điển hình.
Mắt con người có thể nhìn được ánh sáng với độ
dài sóng từ 380 nm (ánh sáng tím) đến 720 nm (ánh sáng đỏ). Sóng
mang năng lượng và năng lượng tỉ lệ nghịch với độ dài sóng. Như vậy,
năng lượng của ánh sáng thấy được là 1,7 eV (720 nm) đến 3,3 eV (380
nm) (Bảng 1). Sóng điện từ có độ dài sóng nhỏ hơn 380 nm là tia tử
ngoại và lớn hơn 720 nm là tia hồng ngoại (nhiệt). Thật là một ngẫu
nhiên thú vị khi các trị số của khe dải năng lượng của các chất bán
dẫn và một số vật cách điện nằm gọn trong vùng năng lượng của tia
hồng ngoại, ánh sáng thấy được và tia tử ngoại. Sự ngẫu nhiên nầy có
liên hệ đến sự phát quang. Khi một điện tử phối hợp với lỗ trống (+)
để từ mực năng lượng cao tụt xuống mực thấp hơn, thì khoảng cách hai
mực nầy chính là khe dải năng lượng của môi trường vật chất nơi mà
sự phối hợp xảy ra. Nói một cách đơn giản hơn, nếu ta muốn có sự
phát quang màu đỏ ta sẽ thiết kế một vật liệu có khe dải trong
khoảng 1,7 eV. Kim cương có trị số khe dải lớn hơn 5 eV, nên khi là
một môi trường phát quang thì kim cương sẽ phát ra tia tử ngoại (Bảng
1). Các hợp chất bán dẫn của gallium (Ga) như GaAs, GaAsP, AlGaP,
GaP, InGaN có trị số khe dải từ 1 eV đến 3,5 eV nên có thể phát ra
toàn thể màu của ánh sáng thấy được.
Bảng 1: Độ dài sóng và năng lượng sóng.
Ánh sáng |
Độ dài sóng (nm) |
Năng lượng sóng (eV) |
Tia tử ngoại |
ngắn hơn 380 |
lớn hơn 3,3 |
Tím |
380 |
3,3 |
Xanh |
450 |
2,8 |
Xanh lá cây |
530 |
2,3 |
Vàng |
580 |
2,1 |
Đỏ |
720 |
1,7 |
Tia hồng ngoại |
dài hơn 720 |
nhỏ hơn 1,7 |
Trong những năm đầu của thập niên 60 của thế kỷ
trước, hợp chất GaAs, GaAsP phát ánh sáng đỏ với hiệu suất rất nhỏ,
cứ 1000 điện tử thì mới cho ra 1 quang tử (photon). Hiệu suất chỉ có
0,1% vì sự phối hợp giữa điện tử và lỗ trống (+) không hiệu quả.
Có những trường hợp sự phối hợp xảy ra không cho ra quang tử mà chỉ
cho ra nhiệt. Đến năm 1999, Michael Kramers và cộng sự tại công ty
Hewlett-Packard tăng hiệu suất lên đến 55 % nhờ phương pháp bẫy điện
tử và lỗ trống (+) để xác suất gặp gỡ nhiều hơn. Đây là một bước
nhảy vượt bực do những cuộc hôn phối âm dương vô cùng hiệu quả xảy
ra trong một môi trường cô lập, sinh sản ra một đàn con quang tử
mang đến những chùm tia sáng mỹ miều cho thiên hạ! Việc tăng hiệu
suất làm tăng cường độ ánh sáng và giảm nhiệt. Ngày hôm nay, đèn
diode có thể sử dụng ở điện áp vài volt, tỏa sáng với cường độ tương
đương với đèn bóng cổ điển nhưng tiêu hao ít hơn 1/10 năng lượng.
Nhưng các nhà khoa học không ngừng ở đây.
Đèn phát quang hữu cơ
Trong khi đèn bán dẫn LED dần dần được hoàn thiện
và cho ra nhiều màu sắc, những vật liệu phát quang khác xuất hiện.
Đây là những vật liệu hữu cơ vô định hình (amorphous) khác với chất
bán dẫn là vật chất kết tinh (cyrstalline). Vật liệu hữu cơ là vật
liệu có nguyên tố cấu thành chính là carbon. Cũng nhờ đặc tính vô
định hình, các đèn phát quang hữu cơ (OLED, organic light emitting
diode) có thể được chế tạo bằng một quá trình đơn giản hơn làm giảm
giá thành. Thật ra, đèn phát quang dùng tinh thể hữu cơ như
anthracene, naphthalene và pyrene (có cấu tạo của những nhân benzene
dính vào nhau) đã được biết hơn 20 năm. Tuy nhiên, các tinh thể nầy
không bền, hiệu suất không cao. Điện áp sử dụng phải ít nhất 10 V,
nhưng thông thường phải ở phạm vi 50 V đến 100 V. Đèn phát quang hữu
cơ nhanh chóng bị bỏ quên vì không có giá trị thực tiễn. Tuy nhiên,
vào năm 1987 một loại đèn phát quang hữu cơ được phát hiện tại công
ty Eastman Kodak (Mỹ) [1]. Ba năm sau đó, nhóm nghiên cứu của giáo
sư Richard Friend [2] tại đại học Cambridge (Anh) tuyên bố thành quả
dùng polymer dẫn điện [3] làm môi trường phát quang (polymer light
emitting diode/device, PLED).
Tương tự như đèn bán dẫn LED, các loại đèn dùng
chất hữu cơ hay polymer nầy có thể phát quang ở điện áp vài volt.
Nhưng khác với LED có trung tâm phát quang là chất bán dẫn với kích
thước vài mm, trung tâm phát quang của OLED và PLED có cấu trúc
"sandwich" (bánh mì kẹp) rất mỏng với độ dày của toàn thể các lớp
phủ vào khoảng vài trăm nanometer (1 nm = 10-9 m), tương
đương với 1/1000 độ dày sợi tóc (Hình 2).

Hình 2: Cấu tạo đèn
OLED và PLED.
Như trong hình vẽ, từ dưới lên ta có một nền thủy
tinh được phủ một lớp mỏng indium-tin-oxide (ITO). ITO là một oxide
dẫn điện cung cấp các lỗ trống (+) khi nối với cực dương của một
nguồn điện. Sau khi được phủ bởi ITO thủy tinh vẫn còn trong suốt và
ta có thể thấy sự phát quang từ "khung cửa" thủy tinh nầy. Các nhà
khoa học rất may mắn có một vật liệu như ITO, vừa dẫn điện, vừa chịu
nhiệt và cho ra những hạt mang điện tích dương (lỗ trống). ITO có
thể phủ lên những tấm plastic trong suốt cho trong những áp dụng
thực tế. Tóm lại, ITO không thể thiếu trong việc phát triển OLED và
PLED. Trên lớp ITO là môi trường phát quang. Môi trường phát quang
có thể được thiết kế một hay nhiều lớp phủ khác nhau để tối ưu hóa
sự phát quang (trong hình vẽ chỉ có một lớp). Sau cùng là lớp cung
cấp điện tử chẳng hạn như nhôm (Al), calcium (Ca) hay magnesium
(Mg). Lớp nầy được nối với cực âm của nguồn điện. Khi cho dòng điện
chạy qua cấu trúc nầy, sự phối hợp của điện tử và lỗ trống (+) sẽ
xảy ra trong môi trường phát quang. Giống như chất bán dẫn, độ dài
sóng của ánh sáng phát ra tùy vào trị số khe dải của môi trường.
Năm 1987, trong khi khảo sát một loại pin mặt
trời (solar cell) dùng chất hữu cơ, Ching W. Tang và Steve A.
VanSlyke của công ty Eastman Kodak (Mỹ) hết sức ngạc nhiên khi có
một dòng điện chạy ngang thì ánh sáng màu xanh xuất hiện từ chất hữu
cơ. Hai nhà khoa học nầy bỏ lửng công trình pin mặt trời để dốc sức
vào việc nghiên cứu đèn OLED. Họ đã công bố trên tạp chí chuyên
ngành một trang cụ phát quang rất đơn giản, nhưng lại là một sáng
tạo thiên tài (Hình 3) [1]. Trong hình cho thấy hai lớp vật liệu hữu
cơ: (1) diamine thơm (aromatic diamine) và (2) 8-hydroxyquinoline
aluminium (viết tắt: Alq3). Cực âm là hợp kim Mg/Ag cung
cấp điện tử. Lỗ trống (+) từ cực dương ITO và điện tử phối hợp tại
môi trường phát quang Alq3 cho ra ánh sáng xanh. Lớp phủ
diamine thơm có tác dụng cho lỗ trống (+) đi qua nhưng chắn điện tử
lọt vào. Như vậy, điện tử không còn đường thoát mà phải phối hợp với
lỗ trống (+) tăng hiệu suất phát quang. Những hiện tượng đưa đến sự
phát quang ở hai lớp phủ Alq3 và diamine thơm xảy ra trong
một không gian có độ dày không quá 150 nm. Hai lớp nầy được phủ qua
một quá trình bốc hơi nhiệt (thermal evaporation) trong chân không.
Sau phát minh nầy, OLED dùng những phân tử nhỏ tương tự như Alq3 có
tên gọi là OLED kiểu Kodak (Kodak-type). Kodak tiếp tục phát triển
OLED và cho đến ngày hôm nay có doanh thu vài tỷ USD hằng năm trên
lĩnh vực nầy. Các doanh nghiệp Nhật Bản ồ ạt đua nhau nghiên cứu và
đưa ra nhiều OLED nhiều màu sắc rất ngoạn mục, nhưng vẫn bị Kodak
chi phối trên vấn đề sở hữu trí tuệ.

Hình 3: Cấu tạo đèn OLED Kodak và cấu trúc phân
tử [1].
Áp dụng đầu tiên của Kodak OLED là màn hình máy
ảnh kỹ thuật số (digital camera) và máy quay phim. Đây là một áp
dụng khôn ngoan vì những ưu điểm của OLED được tận dụng và nhược
điểm không được phô bày. Đối thủ chính của OLED là màn hình tinh thể
lỏng (liquid crystal display, LCD). So với LCD, OLED có thể cho 16
triệu màu khác nhau (LCD: 262.000 màu), và không bị ảnh hưởng của
góc nhìn như LCD, nhờ vậy màu trở nên rõ và sắc. Tuy nhiên, OLED
không có tuổi thọ dài và chưa được phát triển để dùng cho màn hình
to. Những nhược điểm nầy đang được khắc phục và phòng thí nghiệm
Kodak đang chế tạo thành công màn hình 15-inch cho vi tính và tivi
dùng OLED. Samsung tiến xa hơn, chế tạo màn hình tivi OLED 40-inch (Hình
4). Màn hình nầy cực mỏng (1,8 mm) và ít hao điện hơn LCD, nhưng vẫn
chưa tung ra thị trường có lẽ vì giá thành còn quá cao.

Hình 4: Màn hình tivi OLED 40-inch của Samsung
(năm 2005) (Nguồn: www.hdtvsolutions.com)
Loại đèn phát quang hữu cơ thứ hai là đèn diode
polymer (polymer light emitting diode/device, PLED). Vào năm 1990 ba
năm sau ngày Tang and VanSlyke chế tạo OLED, Jeremy Burroughes [2]
thuộc nhóm nghiên cứu của giáo sư Richard Friend tại Đại học
Cambridge (Anh) đã dùng polymer dẫn điện làm môi trường phát quang,
chế tạo thành công đèn PLED. So với OLED, phương pháp phủ lớp
polymer dễ dàng hơn vì không cần phải thực hiện trong chân không.
Dung dịch polymer được nhỏ trên một chất nền rồi để vào máy ly tâm.
Lớp phủ polymer sẽ thành hình sau khi được quay trong máy ở một vận
tốc khá nhanh (1500 vòng/phút). Điều tiện lợi thứ hai là nhờ vào sự
dẫn điện của môi trường phát quang polymer, đèn PLED có thể sử dụng
ở điện áp thấp (2 – 8 V).
Burroughes và cộng sự dùng poly (phenylene
vinylene) (PPV) (Hình 5) cho môi trường phát quang, calcium cho âm
cực và ITO cho dương cực như OLED. Đèn PLED với PPV cho ra ánh sáng
màu vàng/xanh lá cây vì trị số khe dải năng lượng của PPV (2,1 - 2,5
eV) trùng hợp với vùng năng lượng ánh sáng nầy (Bảng 1). Đèn nầy có hiệu
suất phát quang rất hữu hiệu. Ở độ sáng của màn hình vi tính, đèn
PPV có tuổi thọ hơn 10.000 giờ - vào khoảng 4 năm nếu dùng 7 giờ/ngày.
Sau đèn PPV của Burroughes và cộng sự, các nhóm nghiên cứu khác đã
sử dụng PPP và một loạt chất dẫn xuất của PPV và PPP (Hình 5). Đặc
điểm chung của các polymer nầy là nhân benzene. PPP phát ánh sáng xanh;
MEH-PPV phát màu cam/đỏ.

Hình 5: Poly (phenylene vinylene) (PPV), poly(p-phenylene)
(PPP) và các polymer dẫn xuất.
Mặc dù đèn PLED được phát minh chỉ sau OLED 3 năm,
nhưng phát triển của PLED tạo thành sản phẩm thương mãi còn rất chậm
so với OLED. Nguyên nhân chính là ở những năm đầu nghiên cứu, điều
chỉnh màu sắc của môi trường phát quang polymer và kéo dài tuổi thọ
của đèn là những trở ngại lớn. Tuy nhiên, PLED ngày càng bắt kịp
OLED và khoảng cách phát triển càng thu hẹp. Thay vì tổng hợp một
polymer mới, các nhà khoa học điều chỉnh màu ánh sáng bằng cách "gắn"
nhóm biên (side group) vào mạch chính của những polymer có sẵn. Thí
dụ, sự di chuyển màu từ vàng/xanh lá cây của đèn PPV đến màu cam/đỏ
của đèn MEH-PPV là do biến chuyển của trị số khe dải từ 2,3 eV (PPV)
đến 1,8 eV (MEH-PPV) khi nhóm biên MEH hiện diện trên mạch PPV (Hình
5).
Tương tự, phát quang của các chất dẫn xuất của
polythiophene (PT) cũng được khảo sát tỉ mỉ. Bằng phương pháp thay
đổi các nhóm biên của nhân thiophene (Hình 6), người ta có thể chế
tạo các loại đèn bao trùm tất cả loại màu từ ánh sáng tím đến ánh
sáng đỏ và tia cận hồng ngoại [4].

Hình 6: Các polymer dẫn xuất của polythiophene (PT) và các
vùng phát quang tương ứng trong vùng ánh sáng thấy được và cận hồng
ngoại. Thiophene có cấu trúc vòng 5 góc chứa lưu huỳnh (S) [4].
Điều chỉnh màu sắc được thực hiện bằng sự thay
đổi khe dải năng lượng. Khe dải lại được thay đổi bằng cách gắn
những nhóm biên vào mạch chính polymer. Sự điều chỉnh màu sắc bằng
những thiết kế phân tử khác nhau trên mạch polymer là một chiến lược
tuyệt vời và cho thấy sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà vật lý, vật
liệu học và các nhà hóa hữu cơ. Lý thuyết được tiên liệu bởi các nhà
vật lý và bàn tay khéo léo cộng với trực cảm bén nhạy của các nhà
hóa học đưa đến những tổng hợp thành công các chất dẫn xuất của PPV,
PPP và PT có những khe dải được định trước để phát ra những màu sắc
mong muốn.
Hiện nay, những trở ngại kỹ thuật nhất là tuổi
thọ của đèn PLED đã dần dần được khắc phục. Đèn PLED có thể dùng ít
nhất 10.000 giờ, đang bắt kịp người anh em OLED. Ngoài ra, quá trình
sản xuất dùng máy ly tâm để tạo ra những lớp phủ là một phương pháp
đơn giản và ít tốn kém hơn phương pháp chân không của OLED. Một cách
phủ đơn giản hơn nữa
đang được triển khai để tạo lớp phủ phát quang
polymer cực mỏng (~ 100 nm) là phương pháp bắn tia dựa trên căn bản
"ink-jet" in chữ của các máy in vi tính. Vài năm trước đây, công ty
Seiko-Epson hoàn thiện phương pháp bắn tia có khả năng thu nhỏ đèn
PLED thành những pixel và chế tạo thành công màn hình nhỏ nhiều màu
sắc. Phương pháp nầy là một ưu điểm nổi bật của PLED, làm giảm giá
thành sản xuất và trở nên một động lực chính thúc đẩy các công ty
như Dow Chemical, Du Pont, Hoescht, Phillips, Sumitomo, Dainippon
Chemicals tiến hành việc thương mãi hóa PLED.
Màn hình tinh thể lỏng, LCD, có thể biến mất trên
thị trường trong một tương lai gần khi những màn hình lớn OLED/PLED
xuất hiện. Màn hình nầy sẽ có độ mỏng như một trang giấy, có thể
cuộn tròn bỏ túi. Ngoài những áp dụng cho tivi hay máy vi tính, màn
hình OLED/PLED có thể "dán" vào buồng lái xe hơi hay phi cơ dùng cho
trang cụ định vị nhận tín hiệu từ vệ tinh. Những bản đồ quân sự sẽ
là những tấm OLED/PLED mỏng được cuộn tròn rồi mở ra dùng làm màn
hình nối với máy vi tính trong những cuộc hành quân để nhận được
những chỉ thị tức thời (real-time) từ bộ chỉ huy. Thị trường hiện
tại của OLED với phần lớn màn hình cho máy ảnh kỹ thuật số và điện
thoại di động có doanh thu 1 - 2 tỷ USD. Sự xuất hiện của PLED sẽ
tăng kim ngạch nầy đến 20 - 30 tỷ USD vào năm 2012 – 2015, 100 tỷ
vào 2020 và 300 tỷ vào cuối thập niên 2020 [5].
Sự phát triển từ đèn phát quang hữu cơ đến màn hình
hữu cơ OLED/PLED siêu mỏng, siêu nhẹ sẽ thay thế những màn hình tivi
cổ lổ nặng như cối đá. Chỉ ngay trong lĩnh vực nầy thì cũng đã là
một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vĩ đại. Áp dụng của đèn và màn
hình hữu cơ sẽ rộng khắp, vượt qua các áp dụng cổ điển hiện tại và
sẽ tìm đến những áp dụng mới trong đó những tiêu chí về độ mỏng, độ
sáng, nhẹ gọn, bền lâu và ít tiêu hao năng lượng sẽ được hoàn toàn
đáp ứng.
Chúa có thể đã ban phát cho vũ trụ những tia sáng
đầu tiên, hoàn thành sứ mệnh "Sáng Thế" linh thiêng, nhưng trên quả
địa cầu bé bỏng nầy dường như con người vẫn chưa chịu dừng bước.
18 May 2007
Ghi chú và Tài liệu tham khảo
- C. W. Tang and S. A. VanSlyke, Appl. Phys. Lett. 51
(1987) 913.
- J. H. Burroughes, D. D. C. Bradley, A. R. Brown, R. N. Marks,
K. MacKay, R. H. Friend, P. L. Burn and A. B. Holmes, Nature
347 (1990) 539.
- Polymer còn gọi là plastic, nhựa hay chất dẻo. Polymer gia
dụng thông thường như cao su, PVC, nylon, polyethylene là vật cách
điện. Polymer dẫn điện (electrically conducting polymer) là một
polymer có mạch carbon nối liên hợp (- C = C - C = C - ) và có độ
dẫn điện từ chất bán dẫn đến kim loại. Polymer dẫn điện được khám
phá bởi Shirakawa, MacDiarmid và Heeger vào năm 1977 (giải Nobel
Hóa học năm 2000). Phát quang là một trong nhiều ứng dụng của
polymer dẫn điện.
- M. Berggren, O. Inganäs, G. Gustafsson, J. Rasmusson, M. R.
Andersson, T. Hjertberg and O. Wennerstrom, Nature 372
(1994) 444.
- "Polymers light up" in Chemistry & Industry, 26 March
2007.
(*) Anh Trương Văn Tân sinh quán tại tỉnh Sa Đéc,
cựu học sinh trường trung học Sa Đéc và Tống Phước Hiệp (Vĩnh Long).
Anh Tân đến Nhật cuối năm 1969. Anh tốt nghiệp Bachelor Eng.
(1975), Master Eng. (1977) trường Tokodai (Tokyo Institute of
Technology) và PhD (1980, University of Adelaide, Úc).
Anh Tân hiện làm việc tại Viện Khoa Học và Công Nghệ Quốc Phòng (Defence
Science and Technology Organisation) trực thuộc Chính Phủ Liên Bang
Úc. Anh chuyên về Vật Liệu Học và hiện nghiên cứu về polymers dẫn
điện và ống nano carbon. Anh đã công bố gần 70 bài báo cáo khoa học
trên các tạp chí khoa học quốc tế. Xem thêm
những bài viết của anh Trương Văn Tân trên
ERCT
|
|
Cảm tưởng
xin gởi về :
tvtan@erct.com
©
"Khi phát hành lại bài này
cần phải có sự đồng ý của tác
giả
và ghi rõ nguồn lấy từ www.erct.com"
|