|
Nhiệt
Động Học: từ máy hơi nước đến vũ trụ
Trương Văn Tân
If you cannot measure it, then it is not science.
William Thomson
|
Nơi nào có
nhiệt thì nơi đó bị chi phối bởi các quy luật nhiệt động
học. Nhiệt hiện hữu trong vũ trụ. Nên nhiệt động học là bộ
môn vật lý có tầm mức vũ trụ. Nếu có người hành tinh
ngoài kia thì có lẽ họ cũng tuân theo quy luật giống chúng
ta trên quả đất. Nhiệt động học khởi nguyên 200 năm trước từ
sự quan sát của Carnot về máy hơi nước. Công trình của
Carnot được nối tiếp bởi các nhà khoa học khác trong đó có
Clausius và Thomson đưa đến định luật thứ nhất nói về sự
bảo toàn năng lượng và định luật thứ hai về entropy. Theo
dòng thời gian, định luật thứ hai mang nhiều định nghĩa
khác nhau, từ hiệu suất của máy hơi nước, hướng di chuyển
của dòng nhiệt đến việc gia tăng liên tục entropy của vũ trụ.
Boltzmann sử dụng thống kê học để định lượng entropy. Vật lý
gặp thống kê như cá gặp nước. Đầu thế kỷ 20, Shannon triển
khai khái niệm entropy mang sắc thái thống kê vào "thông tin
học" dùng hệ thống nhị nguyên 0/1 để số hóa tất cả mọi
thông tin tạo nên cuộc "cách mạng số hóa" ngày nay với
internet và vi tính. Nhiệt động học có tác động lớn vào
khoa học kỹ thuật cũng như văn hóa chính trị của xã hội
loài người. Chúng ta hãy ngược dòng thời gian trở về 200
năm trước tìm hiểu những công trình nghiên cứu và tư duy suy
luận của các thiên tài vật lý đã sáng tạo nên bộ môn "nhiệt
động học".
*** |
|
1. Mở đầu
Sovereign Hill là tên của một nơi tham quan du lịch ở thị trấn
Ballarat cách thành phố Melbourne (Úc) 100 km về phía tây bắc.
Ballarat và các vùng phụ cận đã từng là nơi hấp dẫn dân tứ
xứ đổ xô về tìm vàng. Nơi đây thị trấn
thiết lập một địa điểm mô phỏng vùng cư trú của lưu dân
khắp nơi trên thế giới đến khu vực Ballarat đào mỏ vàng vào
thế kỷ 19. Khi bước vào đó du khách sẽ có cảm giác
trở về vài trăm năm trước với những con phố thời lập quốc
của Úc, gần đó là một dòng nước nhỏ du khách có thể bới
cát tìm những hạt vàng nhỏ li ti. Xa xa
trên đồi người ta dựng lên một tòa nhà bên trong chứa một cỗ
máy đãi vàng to lớn được vận hành bằng hơi nước có lịch
sử gần 150 năm. Cỗ máy vẫn còn vận hành cho đến
ngày hôm nay cho mục đích hấp dẫn du khách. Những đầu máy
xe lửa chạy bằng than lấy hơi nước làm động lực vẫn được
dùng cho đến thập niên 60 thế kỷ trước.
Trước khi máy hơi nước ra đời vào thế kỷ 18, con người vẫn
tiếp tục sống trên tàn dư của xã hội ảm đạm thời trung cổ.
Con người có tuổi thọ ngắn ngủi, nhiều bệnh tật lại nghèo
khó. Tầng lớp thứ dân kiếm sống hằng ngày bằng cơ bắp của
mình hay bằng sức lực của của các loài động vật đã được
thuần hóa. Tầng lớp quý tộc sung túc hơn nhưng sống trên
sức lao động của giai cấp thứ dân. Việc phát minh đầu máy
hơi nước tại Anh đã làm thay đổi bộ mặt xã hội nước Anh
cũng như toàn thế giới. Người ta không còn sử dụng cơ bắp
của chính mình hay các loài động vật. Cuộc sống con người
trở nên thoải mái, hạnh phúc, giàu có hơn. Phú quý sinh lễ
nghĩa. Xã hội phương Tây dần dần rũ bỏ lớp áo cổ lỗ thời
trung cổ, tiến lên cuộc sống văn minh nhanh hơn phần còn lại
của thế giới. Người Anh bắt đầu làm đầu máy hơi nước cho
xe lửa, tàu thuyền và đồng thời tiếp sức vào quá trình
canh tân sản xuất của cuộc Cách mạng Công nghiệp. Sự di
chuyển và chuyên chở đường bộ bằng cơ bắp của con người và
loài vật được thay thế bằng hơi nước trở nên nhanh chóng và
thuận tiện hơn. Những chiến thuyền phương
Tây chạy máy hơi nước mang súng thần công cũng nhanh chóng
xuất hiện ở trời Đông.
Năm 1858, pháo hạm Pháp bắn phá Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến
thuộc địa hóa Việt Nam gần 100 năm.
Cùng trong một thời kỳ, những chiếc tàu đen (kuroi fune)
phương Tây lai vãng theo bờ biển Nhật Bản. Năm 1853, khi chiến
hạm Mỹ của Đề đốc Perry ngang nhiên cặp bến Uraga gần Edo
(Tokyo ngày nay), tầng lớp cai trị thuộc giai cấp võ sĩ
(samurai) Nhật Bản rúng động. Nước Anh trở
thành Đế quốc Đại Anh nơi mà "mặt trời không bao giờ lặn"
uy danh lừng lẫy với những chiến hạm hiện diện khắp toàn
cầu.
Quả thật, đầu máy hơi nước vô hình trung đã tạo ra một
cuộc cách mạng xã hội và công nghiệp chưa từng thấy trong
xã hội loài người. Chúng đã sâu xa biến đổi phương thức
sinh hoạt của con người cũng như đã thay đổi toàn diện trật
tự thế giới. Những biến đổi long trời lở đất từ đầu máy
hơi nước thật ra chỉ là kết quả bề mặt của bộ môn khoa
học có tên là "Nhiệt động học" (Thermodynamics).
Sự thành hình của nhiệt động học kéo
dài qua hai thế kỷ. Trong quá trình này nhiều thiên
tài khoa học đã xuất hiện và đóng góp vào kho tàng tri
thức khoa học của loài người. Đây là môn học thuộc phạm trù
vật lý chú trọng vào sự tương quan của bốn khái niệm: năng
lượng, entropy, nhiệt độ và áp suất. Entropy không phải là
một từ phổ biến trong đời thường, nhưng cũng như ba khái
niệm còn lại nó hiện hữu trong sinh hoạt hằng ngày mà ta
không hề hay biết.
Khởi nguyên của "Nhiệt động học" là cỗ máy hơi nước khiêm
tốn.
Nói đơn giản, người ta đun nước và cho hơi nước vào một ống
xi-lanh chứa piston. Hơi nước đẩy piston tạo ra lực đẩy, rồi
sau đó sẽ ngưng tụ thành nước khiến piston trở lại vị trí
ban đầu. Hơi nước lại ùa vào lặp lại quá trình đưa piston
lên xuống tạo ra những lực đẩy liên tục thay thế cơ bắp con
người và động vật làm "công" việc (work).
Hãy tưởng tượng một thí nghiệm dùng cái lon nhôm nước ngọt
đã bỏ. Ta cho vào lon một lượng nhỏ nước, bịt thật
kín cái lon rồi đun nước trong lon để tất cả biết thành hơi
nước. Bất thần ta cho cái lon vào một thùng nước lạnh.
Hơi nước bên trong sẽ ngưng tụ thành nước
tạo ra khoảng chân không khiến cho lon bẹp rúm lại giống như
ta dùng búa đập vào lon. Tác dụng đập búa là do cơ
bắp con người. Tác dụng của phình hơi nước và ngưng tụ
nước trong cái lon, nguyên tắc của máy hơi nước, cho ra một "công"
tương đương với tác động "đập búa".
Người Anh là một dân tộc có tinh thần thực tiễn. Từ xưa họ
đã giỏi về công nghệ (engineering).
Năm 1769, khi châu Á còn "ngựa xe như nước" thì James
Watt, người Tô Cách Lan (Scotland), đem nước Anh vào thời đại
cơ khí hóa qua việc hoàn thiện đầu máy hơi nước tiên tiến
nhất đương thời và cách mạng hóa các phương tiện giao thông,
khai khẩn khoáng sản. Đó cũng là đầu máy mà người viết
được chiêm ngưỡng trong những lần viếng thăm đồi Sovereign
Hill (Hình 1).

Hình 1: Máy hơi nước James Watt có ống xi-lanh chứa piston (bên
trái)
tạo ra công làm chuyển động bánh xe
(bên phải). (Nguồn: Wikipedia)
Sự ra đời của đầu máy hơi nước trùng hợp với thời kỳ
Cách mạng Công nghiệp mà chủ yếu là cách mạng phương pháp
sản xuất. Vào giữa thế kỷ 19, máy hơi nước tràn ngập Luân
Đôn. Tuy nhiên, hiệu suất của những chiếc máy này rất kém
chỉ đạt 0,5% năng lượng đầu vào do nhiệt tạo ra từ việc
đốt than đá, 99,5% còn lại chỉ "gởi gió cho mây ngàn bay"!
Nếu quan sát cách vận hành của máy hơi nước, ta sẽ thấy
nhiệt bị lãng phí một cách đáng tiếc. Nhưng nước Anh lúc
đó dồi dào than đá lại không cần phải lo lắng khí nhà
kính làm biến đổi khí hậu như thời hiện đại, các nhà sản
xuất thoải mái sử dụng than đá cho những đầu máy hơi nước
còn thô sơ dù hiệu suất thấp nhưng việc kinh doanh vẫn phát
đạt.
2. Sadi Carnot: máy hơi nước
Người Anh có đầu óc thực tiễn nhưng người Pháp có tư duy
phân tích toán học. Hiệu suất thấp của máy hơi nước đã
kích thích sự tò mò của một thanh niên Pháp ở tuổi đôi
mươi.
Đó là Sadi Carnot, người đã lập ra nền tảng của lý thuyết
nhiệt động học. Nước Pháp không dồi dào than đá như Anh nên
đối với Carnot việc gia tăng hiệu suất của máy hơi nước là
cần thiết không những cho học thuật mà còn giúp nước Pháp
gia tăng năng lực sản xuất công nghệ để bắt kịp với người
láng giềng Anh quốc. Khi Carnot quan sát máy hơi nước (1824)
của James Watt, Carnot nhận ra rằng phải có một nguồn nhiệt
đun nước cho ra hơi nước ở 100 °C và hơi nước tạo ra áp suất
rất lớn đẩy piston trong xi-lanh. Nhưng hơi nước cần nguồn
lạnh làm ngưng tụ nước khiến cho áp suất giảm để đưa piston
trở về vị trí ban đầu. Tác dụng lên xuống của piston tạo
ra "công" (work). Thí dụ cái lon nước ngọt
bên trên cũng cần một thùng nước lạnh.
Carnot so sánh nguồn nhiệt như nguồn nước.
Nếu nguồn nước bị giữ nguyên một chỗ không cho lưu động,
nước sẽ tràn ngập mênh mông nhưng không có tác động gì xảy
ra. Nước cần phải chảy xuống thấp để tạo ra công,
chẳng hạn để quay một bánh xe.
Tương tự, nguồn nhiệt nóng của đầu máy
cần phải chuyển đến một vùng lạnh và sự sai biệt nhiệt độ
sẽ cho ra "công". Sự so sánh của Carnot có phần khập
khiễng nhưng mô tả được hiệu suất của máy hơi nước. Sự sai
biệt chiều cao của thác nước càng lớn thì sức va đập của
nước ở đáy thác càng mạnh. Tương tự, sự
sai biệt nhiệt độ của nguồn nhiệt và nguồn lạnh càng lớn
thì hiệu suất máy càng to. Carnot
cuối cùng kết luận rằng, "Chỉ có nhiệt không thôi thì
nó không đủ để sản sinh ra một sức đẩy mà cần phải có
vùng lạnh đi kèm. Nếu không, nguồn nhiệt trở nên vô dụng".
Đây trở thành một nguyên lý đầu tiên trong
lịch sử phát triển nhiệt động học và cho tất cả đầu máy
có piston. Nếu ta nhìn vào bộ phận của chiếc xe hơi
hiện đại ngày nay từ hạng bình dân Toyota đến hạng đại gia
Mercedes, đầu máy lúc nào cũng có một bình nước tản nhiệt
(radiator) giống nhau không phân biệt giai cấp.
James Watt đã chế tạo ra ống trụ xi-lanh chứa piston cho đầu
máy hơi nước bằng đầu óc công nghệ của mình và Carnot định
lượng hóa sự dịch chuyển piston lên xuống bằng những phương
trình toán đơn giản cho sự hấp thụ năng lượng nhiệt ờ đầu
vào và phóng thích nhiệt vào nguồn lạnh trong mỗi lần
dịch chuyển. Như vậy, từ nguyên lý hai nguồn nóng và lạnh
Carnot đề xuất ra "Chu trình Carnot" (Carnot Circle) nổi tiếng
để mô tả một vòng lên xuống của piston và cùng lúc đưa ra
một định luật khẳng định rằng, máy hơi nước và sau này là
máy nổ (combustion engine) không thể đạt đến hiệu suất 100%.
Đây là định luật thứ hai của nhiệt động học. Định luật thứ
nhất diễn tả sự bảo toàn năng lượng, năng lượng không sinh
không diệt mà chỉ có sự chuyển hoán năng lượng (nhiệt năng
chuyển hóa thành cơ năng trong máy hơi nước).
Nếu máy hơi nước có một nguồn lạnh ở 0 °C, theo công thức
Carnot thì hiệu suất cao nhất có thể đạt được là 27% (Phụ
chú 1). Đầu máy với hiệu suất này chỉ có thể làm những
công việc nhẹ, nhưng để biến nó thành đầu máy xe lửa kéo
một đoàn tàu hay máy tàu thủy quay chân vịt thì 27% là con
số vô vọng. Để gia tăng hiệu suất người ta cần nồi hơi có
áp suất cao để nâng cao nhiệt độ sôi của nước. Ở áp suất 6
khí áp (6 atm), nước sôi ở 280 °C và hiệu suất tối đa là
50%. Dù được thiết kế để có hiệu suất tối đa, hiệu suất
đầu máy hơi nước xe lửa ở thế kỷ
19 vẫn quanh quẩn ở 10%.
Sau khi khám phá được hiệu suất máy hơi nước chỉ tùy thuộc
vào sự khác biệt giữa nhiệt độ giữa nguồn nóng và nguồn
lạnh, Carnot nghi ngờ hơi nước không phải là thứ độc nhất
làm máy chạy, vậy không khí thì sao? Ông
đã đưa ra một câu hỏi làm bối rối những kỹ sư đương thời.
Rằng, "Có phải hơi nước là vật chất tốt nhất dùng trong
máy để rút ra một động lực từ nhiệt? Thật ra,
ta có thể gia nhiệt bất cứ loại khí nào, không chỉ hơi
nước, làm giãn nở nó để gia tăng áp suất lên piston.
Điều này hàm ý rằng mọi loại khí đều
có thể đẩy được piston. Như vậy, có chăng một đầu
máy được vận hành, chẳng hạn bởi không khí hay hơi rượu,
sẽ tạo ra động lực to hơn máy hơi nước ở cùng một lượng
nhiệt cung cấp?". Sự băn khoăn mang tính dự phóng thiên
tài này đã cho thấy khả năng chế tạo máy nổ dùng nhiên
liệu hydrocacbon (xăng, diesel) phản ứng với không khí bằng
tác dụng nổ trong lòng xi-lanh để đẩy piston.
Sadi Carnot chưa kịp thực hiện những ý tưởng của mình thì
qua đời vì bệnh dịch tả ở tuổi đời 36 (1832).
Ông ra đi bất chợt như một vì sao đang tỏa sáng trên bầu
trời khoa học thì bỗng nhiên vụt tắt. Sáu mươi năm sau
(1893), Rudoft Diesel, kỹ sư cơ khí người Đức đã chế ra máy
nổ Diesel dựa theo ý tưởng ban đầu sử dụng "không khí hay
hơi rượu" của Carnot. Máy nổ chạy xăng nối bước ra đời. Máy
nổ không những đã loại trừ được cái lò than đun nước vô
cùng cồng kềnh mà còn tăng hiệu suất của máy. Phản ứng
đốt cháy (combustion) của hỗn hợp giữa khí nhiên liệu
hydrocacbon bằng tia lửa từ bugi tạo ra nhiệt và lực đẩy
piston và phóng thích nhiệt có nhiệt độ trên 1000 °C.
Hiệu suất máy nổ Diesel đạt đến 50% trong
khi máy xăng là 35%. Sự khác biệt hiệu suất là do
cấu trúc hóa học khác nhau giữa phân tử diesel và xăng
(octane).
3. Rudoft Clausius
và William Thomson: entropy
Carnot qua đời nhưng công trình và ý tưởng của ông chưa được
giải thích và triển khai triệt để.
Rudoft Clausius (người Đức) được truyền cảm
hứng từ Carnot. Cho đến thời điểm của Clausius vào
giữa thế kỷ 19, bản chất của nhiệt, công, entropy và định
luật nhiệt động học đã được thiết lập. Người ta đã hiểu
rằng: (1) định luật thứ nhất cho thấy nhiệt là một dạng
năng lượng được chuyển biến thành "công" (work, cơ năng) để di
chuyển một vật, nhưng (2) định luật thứ hai cho biết không
thể chuyển biến 100% nhiệt năng thành cơ năng.
Máy hơi nước Carnot đã chứng thực điều
này. Clausius tưởng tượng ra một loại máy ngược lại máy hơi
nước Carnot. Thay vì mang nhiệt từ
nguồn nóng đến nguồn lạnh và sản sinh ra công thì máy
Clausius sẽ mang nhiệt từ nguồn lạnh đến nguồn nóng.
Mà muốn thực hiện điều này thì Clausius
cần dùng "công" rút nhiệt từ một hệ thống và chuyển đến
nguồn nóng. Chẳng qua đó là nguyên
lý của chiếc tủ lạnh. Phía sau
chiếc tủ lạnh hiện đại là một bộ phận dùng điện có chức
năng "rút" nhiệt từ trong tủ lạnh (nguồn lạnh) xả ra ngoài
(nguồn nóng). Nếu ta áp tay
vào phía sau chiếc tủ lạnh ta cảm nhận nóng là do nhiệt xả
ra từ bộ phận rút nhiệt cộng với nhiệt độ của môi trường
xung quanh.
Từ quan sát này, Clausius đưa ra một quy luật quan trọng là:
Nhiệt di chuyển tự phát từ vùng nóng sang vùng lạnh.
Ngược lại, ta phải áp đặt một năng lực (công) để đem nhiệt
từ vùng lạnh sang vùng nóng. Quy luật này là cách diễn tả
khác của quy luật thứ hai của nhiệt động học. Khái niệm
của Clausius không phải chỉ có tính hàn lâm mà còn đặt nền
tảng cho việc phát minh chiếc tủ lạnh mang tới nhiều lợi
nhuận cho việc chuyên chở thực phẩm đi xa hàng ngàn cây số
trong cao trào Cách mạng Công nghiệp đương thời. Ngày nay, ta
xem hiện tượng này là việc đương nhiên nhưng nó chính thức
khai sinh ra một ngành khoa học mới: Nhiệt Động Học. Clausius
đưa ra một khái niệm mới cho nhiệt động học nói riêng và
khoa học nói chung, đó là "entropy" viết tắt bằng mẫu tự "S"
. Theo ông, entropy là lượng đo độ phân tán của nhiệt. Sự
phân tán nhiệt càng rộng thì entropy càng to. Trên tầm mức
vũ trụ, định luật thứ hai theo
Clausius là "entropy của vũ trụ không bao giờ giảm".
William Thomson (người Anh), về sau được phong tước còn gọi
là Lord Kelvin cùng thời với Clausius, là một nhân vật khác
hấp dẫn bởi công trình của Carnot.
Khi vừa bước vào tuổi đôi mươi (1845), cũng như nhiều nhà
khoa học khác đương thời Thomson băn khoăn về bản chất của
nhiệt. Ông sang tận Paris tìm mua bản chuyên luận về nhiệt
của Carnot "Reflections on the motive power of fire" (Nghĩ
về động lực của lửa). Khi còn ở tuổi 16, ông đã đọc và
bị ảnh hưởng của phương trình toán diễn tả cơ chế phân bố
của nhiệt lan tỏa trên một thanh sắt
theo thời gian của nhà toán học Pháp Fourier.
Tài năng hơn người của Thomson đã đưa ông
đến chức vụ giáo sư đại học Glasgow ở tuổi 22 (1846).
Máy hơi nước của Carnot và phương trình toán của Fourier đã
làm Thomson thắc mắc khi quan sát thanh sắt nóng ở đầu này
và lạnh ở đầu kia. Tại sao sự di
chuyển nhiệt đầu nóng sang đầu lạnh cho đến khi thanh sắt
có nhiệt độ giống nhau lại không cho ra "công" (động lực)
hữu dụng nào? Đối với kẻ phàm phu thì
chỉ là chuyện nhỏ quá hiển nhiên cớ chi phải vướng nhiều
thắc mắc? Nhưng trong sự nghi ngờ
mang chút ngây thơ của một nhà khoa học thì nó có thể tiềm
tàng nhiều bí ẩn. Vài năm sau (1852) Thomson có câu trả lời
cho sự thắc mắc của mình. Như Clausius đã nhận định:
nhiệt di chuyển tự phát từ nóng sang lạnh; nhiệt ở đầu
nóng không thể "dậm chân một chỗ" tụ lại mà bị tiêu tán
(dissipate) sang đầu lạnh cho đến khi nhiệt độ giống nhau trên
toàn thanh sắt. Mà khi nhiệt độ đâu đâu cũng giống nhau thì
làm sao có sự sai biệt nóng – lạnh để tạo ra một động lực
hữu dụng?
Nhiệt "ghét" sự khác biệt.
Nhiệt muốn tiêu tán nhiều nhất có thể để mang đến sự bình
quân giống nhau toàn diện. Đương nhiên, nhiệt là một dạng năng
lượng có thể chuyển thành "công" tuân theo định luật thứ
nhất bảo toàn năng lượng như nhìn thấy từ máy hơi nước
Carnot. Nhưng theo Thomson, vận mệnh của "công" được tạo ra
làm di chuyển cái piston của máy hơi nước chỉ là cái tạm
bợ vì cuối cùng nó chuyển biến trở lại thành nhiệt bị
tiêu tán bởi sự ma sát khi bộ máy vận hành. Đó là nhiệt
tiêu tán bởi sự ma sát bánh xe hơi trên mặt đường hay bởi
lực kéo của dòng nước tiếp giáp thân tàu thủy. Tương tự,
một trái banh thả từ trên cao xuống mặt đất không thể trở
lại chiều cao ban đầu do nhiệt bị tiêu tán bởi sự ma sát
với mặt đất. Không có biện pháp nào có thể "hốt" lại
nhiệt tiêu tán để hoàn lại cho chiếc bánh xe cho thân tàu
thủy hay đẩy trái banh lên chiều cao ban đầu. Đó là con
đường một chiều hay là tính "bất khả nghịch"
(irreversibility) của thiên nhiên. Những gì
xảy ra trong vũ trụ chỉ có một hướng đi tới không có sự
quay đầu vòng lại. Từ nhận thức này, Thomson phát hiện ra
mũi tên thời gian từ quá khứ, hiện tại hướng đến tương lai.
Quan sát từ chiếc thanh sắt đầu nóng đầu lạnh, ông suy luận
rằng trong vũ trụ có sự tiêu tán nhiệt bất khả nghịch
giữa những vùng nóng và lạnh.
Sự tiêu tán gia tăng theo thời gian và
entropy gia tăng theo định luật thứ hai của Clausius.
Cho đến khi sự tiêu tán chấm dứt thì thời
gian sẽ chấm dứt. Đó là ngày tận thế.
Vũ trụ sẽ chết. Lúc đó entropy sẽ ngừng
gia tăng. Hiện tượng này được gọi
là "chết nhiệt" (heat death) của vũ trụ.
Hậu thế thực sự bái phục tư duy trác
tuyệt của Thomson. Ông nhìn ra cái
kết của vũ trụ từ việc quan sát thanh sắt qua cách suy
diễn chỉ dựa trên nhiệt, thể tích và áp suất của một vật
thể. Đã có một số không ít người
hoảng hốt cho những lời đồn đoán của ngày tận thế. Nếu
có ngày tận thế nào đó trôi qua mà trời không sụp thì lại
ngây thơ phập phồng lo cho ngày tận thế kế tiếp… Nhưng
theo sự tính toán cho hiện tượng "chết
nhiệt" thì ngày tang của vũ trụ sẽ xảy ra 10100
(100 con số 0 sau số 1) năm sau. Thời gian này xa xôi lắm gần
như vô hạn. Nếu có tận thế thì không phải "tại thiên" mà
là "tại nhân". Buồn thay, loài người có thể đã tự hủy
diệt và biến mất hàng tỉ tỉ năm trước đó vì chiến tranh
hạt nhân, vì nghèo đói bệnh tật gây ra bởi sự hung hăng,
háo chiến, ích kỷ, ngu xuẩn của con người.
Phương pháp luận khoa học tiến triển theo
thời gian từ vĩ mô đến vi mô. Khi các nhà khoa học phát
hiện ra vật chất tạo ra từ nguyên tử thì cách nhìn khoa
học dần dần chuyển biến từ "hiện tượng luận"
(phenomenology) của thế giới vĩ mô sang "nguyên tử luận" của
thế giới vi mô. Nhiệt động học cũng không
là ngoại lệ. Trong các công thức vật lý giải thích
một hiện tượng như sự liên hệ giữa hai biến số như nhiệt độ và
áp suất dựa trên những quan sát vĩ mô cũng "tiến hóa" trở
nên công thức giữa các biến số
mang sắc thái nguyên tử (Phụ chú 2). Những khái niệm về
nhiệt, nhiệt độ, di động nhiệt, chuyển hóa năng lượng, áp
suất, thiết kế máy trong tư duy "hiện tượng luận" của thời
đại Carnot dần dần được khảo sát dưới góc nhìn vi mô mà
trong đó nguyên tử/phân tử là yếu tố then chốt. Trong chiều
hướng đó, các định luật nhiệt động học, nhất là định
luật thứ hai, được tái hiện dưới góc độ vi mô.
Chúng ta hãy nhìn vào hai công trình sau
đây của James Maxwell và Ludwig Boltzmann được suy luận và
tính toán trên nền tảng "nguyên tử luận".
4. James Maxwell:
con yêu tinh nhỏ bé
Trẻ hơn William Thomson và Rudoft Clausius nhưng cùng thế hệ,
một người khổng lồ khác của khoa học xuất hiện. Đó là
James Clerk Maxwell người Tô Cách Lan có tầm vóc Newton và
Einstein. Vào thập niên 1850 ông viết ra 4 phương trình vi phân
lừng danh thống nhất tất cả các loại sóng điện từ kéo
dài từ tia gamma, tia X, ánh sáng thấy được đến sóng radio.
Bốn phương trình dù ngắn gọn nhưng đã làm chấn động thế
giới khoa học mà theo Richard Feynman dù có đến 10,000 năm sau
thiên hạ vẫn còn đánh giá chúng là một phát hiện quan
trọng nhất của thế kỷ 19. Ngày nay, những
ứng dụng của phương trình sóng điện từ Maxwell hiện hữu ở
mọi ngõ ngách trong sinh hoạt xã hội loài người cũng như
tạo ra sự liên thông giữa con người và vũ trụ.
Là người đa tài, Maxwell đã có những đóng
góp lớn vào nhiệt động học.
Một hôm vào một ngày êm đềm của mùa đông năm 1867, Maxwell
trầm tư ngồi viết thư cho người đồng
nghiệp mô tả con sinh vật tí hon tưởng tượng của mình.
Sinh vật này có "phép thần thông" tầm cỡ
của Tôn Ngộ Không phương Đông. Nó có khả năng
theo dõi đường đi nước bước và vận
tốc của mỗi phân tử khí được chứa trong cái hộp ở một
nhiệt độ nhất định. Tưởng tượng của Maxwell về con sinh vật
tí hon không phải do sự ngẫu hứng như nhà thơ bất chợt rưng
rưng thăng hoa gặp được nguồn thơ. Mà ông đã có một thời
gian dài nghiên cứu về động lực học thể khí (kinetic theory
of gas) và có đóng góp to lớn vào lý thuyết về nhiệt.
Maxwell đã viết ra một công thức định lượng hóa sự phân bố
năng lượng nhiệt cho mỗi phân tử khí trong một cái hộp.
Nhiệt độ của cái hộp là nhất định, giống nhau ở mọi điểm
trong hộp. Nhưng trong thế giới vi mô ta có vô số phân tử khí
di động hỗn loạn ở những vận tốc khác nhau. Phân tử nhận
được nhiều năng lượng nhiệt thì di động ở tốc độ nhanh, ít
nhiệt thì tốc độ chậm v.v… Như vậy, con
sinh vật tí hon của Maxwell sẽ có vai trò gì? Ông
tưởng tượng trong hộp có tấm màng phân cách chiếc hộp
thành hai bên A và B và có cửa sổ
đóng mở (Hình 2). Sinh vật này vừa quan
sát vô số phân tử "bay bay" vừa đóng mở chiếc cửa sổ.
Cửa sổ này không có trọng lượng nên tác
động đóng mở không cần năng lượng. Khi có một phân tử
di động nhanh thì nó mở cửa sổ cho phân tử này qua bên B
rồi đóng lại, phân tử di động chậm ở lại bên A. Cuối cùng,
cái hộp sẽ chứa phân tử di động nhanh mang nhiều nhiệt ở
bên B và phân tử di động chậm ít nhiệt hơn ở bên A. Như vậy,
nhờ con sinh vật "thần thông" này chiếc hộp sẽ biến từ một
trạng thái có nhiệt độ khắp nơi giống nhau trở thành hộp
có hai phần; phần A lạnh (ít nhiệt) và phần B nóng (nhiều
nhiệt) mà không cần tốn hao năng lượng.
Cuối cùng, ta có một hộp có hai vùng nóng lạnh có thể sử
dụng như chiếc máy hơi nước Carnot tạo ra "công". Ta sẽ
có bộ máy không cần nạp năng lượng đầu vào nhưng cứ mãi
mãi tạo ra "công" cho ta sử dụng vào việc vận chuyển mọi
thứ ở đầu ra. Nói theo ngôn ngữ
bình dân là ta ăn được nhiều thứ bánh mà không cần phải trả
tiền! Nhưng cuộc đời đã chứng minh rằng không có buổi
ăn trưa nào miễn phí cả.

Hình 2: Sinh vật tí hon có "phép thần thông" Maxwell di chuyển
phân tử di chuyển chậm (màu xanh) qua bên A
và phân tử di chuyển nhanh (màu đỏ) qua bên B. (Nguồn: Wikipedia)
Thật sự, sẽ không bao giờ có con sinh vật Maxwell với phép
thần thông thực hiện được cuộc phân chia ly kỳ này. Ta hãy
làm con toán chứng minh sự bất khả thi.
Thí dụ, ta có 50 viên bi màu đỏ (đại diện phân tử di động nhanh)
và 50 viên bi màu xanh (đại diện phân tử di động chậm) trong một
cái hộp. Khi ta vô tư lắc cái hộp (hành động tự phát) thì
hai loại bi này có khuynh hướng hòa lẫn vào nhau một cách
vô trật tự. Nếu muốn hai loại bi được phân chia rạch ròi như
cách làm của sinh vật Maxwell th́ dù ta ngồi đó lắc hộp
suốt đời cũng không có vận may. Trúng số độc đắc có lẽ
còn nhiều vận may hơn! Tại sao? Theo
phương pháp thống kê, các sắp xếp của 100 viên bi mang hai màu
riêng biệt có con số khổng lồ là 1029 (sau số 1
có 29 con số 0) cách (Phụ chú 3). Trong đó, cách sắp đặt
có trật tự bên A bên B của con sinh
vật Maxwell chỉ là 1 trong 1029 cách sắp xếp đó.
Còn lại là vô vàn cách sắp xếp hỗn loạn.
Điều này cũng nói lên thanh sắt của Thomson không thể tồn tại
với hai đầu nóng lạnh riêng biệt có trạng thái entropy thấp.
Chiếc hộp chứa vô số phân tử mang nhiều nhiệt lượng khác
nhau di động hỗn loạn hòa lẫn vào nhau xảy ra tự nhiên hơn
là bị chia ra hai nóng và vùng lạnh. Chúng tiêu tán do dòng
nhiệt từ nguồn nóng hỗn loạn hòa lẫn với nhiệt ở nguồn
lạnh (định luật thứ hai) để đạt đến trạng thái entropy cao.
Rõ ràng, "Nhiệt ghét sự khác biệt"
là cái lẽ tự nhiên. Mọi vật kể cả
vũ trụ một cách tự phát đều tiến đến trạng thái entropy
cao.
Đứng trước cuộc thí nghiệm tưởng tượng lạ lẫm này của
Maxwell, William Thomson đặt tên cho con sinh vật là "yêu tinh"
(demon, tại sao không gọi là thiên thần?).
Cụm từ "Maxwell's demon" đã im lìm đi vào
lịch sử vật lý nhưng tạo ra tiếng vang cho đến ngày nay.
Thí nghiệm tưởng tượng của Maxwell không phải là thí nghiệm
của một kẻ ngây thơ "điếc không sợ súng" hồn nhiên vi phạm
định luật thứ nhất và định luật thứ hai của nhiệt động
học. Maxwell không giải thích tại sao con sinh vật của mình
cử động mà không cần năng lượng và làm sao chế tạo được
cánh cửa sổ không có trọng lượng. Việc
này hoang tưởng không thực tế. Có
lẽ ông muốn chứng tỏ sự chặt chẽ của định luật thứ hai
không gì có thể phá vỡ. Hay ông muốn thách thức
những thế hệ sau chế tạo được con yêu tinh vì có lúc ông
cũng mong rằng nếu ta có thể nhìn thấy từng cá thể phân tử
và lôi kéo sự di động của chúng thì không chừng ta có thể
đảo lộn được định luật thứ hai. Con số 100
viên bi là con số cực nhỏ khi so với thực tế một lít thể khí có
khoảng 3 x 1022 (30.000 tỉ tỉ) phân tử khí.
Đây là con số to hơn cả con số thiên hà. Chưa kể đến vận
tốc cực nhanh của một phân tử di động bởi nhiệt. Thí dụ,
ở nhiệt độ bình thường 20 °C, một phân tử khí "bay" với
vận tốc khoảng 500 m/s (1800 km/h) (Phụ chú 4). Do vậy, ở thế
kỷ 21 này chưa có thứ máy móc nào có chức năng "yêu tinh"
được loài người chế tạo có thể quan sát từng phân tử chứa trong
1 lít thậm chí 1 cm3 thể khí để "lôi kéo" chúng
tập trung vào những vùng khác nhau thỏa mãn yêu cầu của
Maxwell.
Ngoài những lời chỉ trích về hành xử của con yêu tinh bé
nhỏ Maxwell là phi thực tế và một số đòi hỏi "trăm nghe
không bằng một thấy", đại loại "hãy cho tôi xem con sinh
vật tí hon của ông đi!", thì hơn một thế kỷ qua không ai
dám hỗn hào khích bác con yêu tinh Maxwell.
Nó vẫn tồn tại trong các kinh điển vật lý như một điều
nhức nhối trầm kha vì thật sự lý luận của Maxwell dù phi
thực tế nhưng không có gì sai lầm quá đáng. Nửa thế
kỷ sau, Leo Szilárd, nhà vật lý nổi tiếng người Hung gốc Do
Thái, mở lại những trang sách cũ tiếp tục công trình "con
yêu tinh nhỏ bé Maxwell", tưởng tượng một yêu tinh khác hiện
diện trong piston kiểu Carnot điều khiển cái piston chạy tới
lui làm ra "công".
Từ đó, trải qua nhiều thập niên câu chuyện con yêu tinh đáng
yêu chết dần trong quên lãng thì bỗng nhiên trở mình sống
dậy. Trong cụm từ "phép thần thông" có chữ "thông", "thông"
đi với "tin" thành "thông tin" (information).
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại IT. Để con
yêu tinh bé nhỏ hành động có hiệu quả trong việc chọn lựa
phân tử bay nhanh hay phân tử bay chậm, nó phải biết
thu thập "thông tin" và phương hướng
của từng phân tử. "Phép thần thông" chẳng
qua là "thông tin". Con yêu tinh phải biết nhập "thông
tin" vào bộ óc nhỏ bé của mình rồi xử lý chúng như chiếc
máy vi tính để đưa ra quyết định hành động lựa chọn. Vô
hình trung, con yêu tinh Maxwell đã đưa "thông tin" vào vật lý.
Mà khi hai thực thể này kết hợp với nhau
thì nó mở toang cánh cửa Alibaba để xã hội loài người
tiến đến kho tàng của cách mạng tin học mở ra thời đại IT.
Cuối cùng, vấn đề thiết thực mà xã hội loài người hằng
mong đợi, nhất là trong thời buổi các thế lực bá quyền
toàn cầu hầm hừ với nhau khiến giá cả nhiên liệu leo thang, là
liệu "thông tin" có thể thay xăng nhớt làm chạy một đầu máy?
Nó có gắn liền với thực tế hay chẳng qua chỉ là trò chơi
cân não truy tìm niềm vui trong những phương trình toán học
của các nhà khoa học? Chúng ta hãy chờ
xem.
Maxwell bất hạnh qua đời ở tuổi 48 vì ung
thư. Thật là đáng tiếc cho một thiên
tài, ông ra đi trong lúc tài năng của ông còn thừa để đóng
góp nhiều hơn cho khoa học.
5. Ludwig
Boltzmann: entropy thống kê
Câu chuyện "con yêu tinh" cho thấy định luật thứ hai mang tầm
ảnh hưởng sâu rộng vượt ra ngoài khuôn khổ của chiếc máy
hơi nước. Chúng ta hãy nhìn xem khía cạnh khác của định
luật thứ hai từ phương pháp luận vi mô. Ludwig Boltzmann,
người Áo sinh vào năm 1844, là hậu bối của Thomson, Clausius
và Maxwell. Boltzmann là một trong những người tiên phong sáng
lập nên môn Vật lý Thống kê (Statistical Physics, còn gọi là
Cơ học Thống kê) đặt những vấn đề của nhiệt động học dưới
góc nhìn thống kê và nguyên tử luận. Ông sinh ra trong thời
đại khi các nhà khoa học chưa tin vào sự hiện hữu của
nguyên tử tạo nên vật chất. Không ít các nhà khoa học đương
thời thuộc trường phái "hiện tượng luận" kể cả Max Planck,
người đặt ra nền tảng của thuyết lượng tử, lúc đầu cũng
phủ nhận thậm chí chê bai ý nghĩa thống kê về entropy của ông.
Họ cho rằng giả thuyết dựa trên nguyên tử
/ phân tử không tương thích với định luật thứ hai, mặc dù
không có bằng chứng nào xác nhận quan điểm này.
Hãy tưởng tượng ta có hai căn phòng riêng biệt; một phòng
được sưởi ấm, phòng kia thì không.
Khi ta mở cửa để hai phòng liên thông với nhau thì nhiệt từ
phòng có sưởi tuồn sang phòng không sưởi
theo định luật thứ hai của Clausius, nhiệt di động từ
nguồn nóng sang nguồn lạnh. Phân tử trong phòng sưởi di động
nhanh sẽ va chạm với phân tử di động
chậm trong phòng không sưởi. Trong cuộc va
chạm hỗn loạn, phân tử di động nhanh sẽ chậm lại và phân tử
di động chậm sẽ nhanh hơn. Cuối cùng, các phân tử có vận
tốc di động bằng nhau và hai căn phòng có nhiệt độ giống
nhau. Sự tương quan giữa vận tốc di động (động
năng) và nhiệt năng được giải thích trong Phụ chú 4.
Thí dụ này cũng giống sự tiêu tán nhiệt
trong thanh sắt đầu nóng đầu lạnh của Thomson.
Boltzmann nhìn hiện tượng này bằng tư duy thống kê.
Boltzmann viết ra một công thức lừng danh S = klogW.
S là entropy, W là số cách sắp xếp được để
dưới dạng log và k là hằng số mang tên ông. Sau
khi Boltzmann qua đời công thức này được khắc lên mộ
bia của ông (Hình 3).
Entropy đã được định lượng hóa bởi
Boltzmann. Entropy chẳng qua là biểu hiện con số của
các cách sắp xếp/phân bố của một hệ thống, hệ thống đó
có thể là 100 viên bi, 1 lít phân tử khí hay toàn thể phân
tử / nguyên tử của vũ trụ. Trong trường hợp của 50 viên bi đỏ
và 50 viên bi xanh th́ số cách sắp xếp W =
1029; đă là một con số khổng lồ.

Hình 3: Công thức S = klogW được khắc ở phần trên mộ
bia của Boltzmann. (Nguồn: Wikipedia)
Như đề cập bên trên, Thomson dự đoán rằng sự tiêu tán của nhiệt
trong vũ trụ sẽ làm entropy của vũ trụ gia tăng không ngừng như định
luật thứ hai của Clausius đă khẳng định.
Không có thời điểm nào giống thời điểm nào trong
quá tŕnh tiêu tán nhiệt. V́ entropy vũ trụ không ngừng gia
tăng, sự gia tăng entropy đi từ thấp đến cao
theo thời gian. Entropy là mũi tên của
thời gian. Đến một lúc nào đó nhiệt vũ trụ phân bố đồng đều
th́ entropy ngừng tăng và cuộc đời của vũ trụ sẽ chấm dứt v́ hiện
tượng "chết nhiệt". Khác với Thomson nghĩ đến
cái chết của vũ trụ, từ suy luận thống kê của ḿnh Boltzmann nghĩ
đến sự khai sinh của vũ trụ. Theo
Boltzmann nếu đi ngược dòng thời gian như cuốn phim quay ngược,
trở lại thời điểm ban đầu, th́ entropy của vũ trụ trong trứng
nước phải rất thấp. Ông tin rằng phải có một thời điểm
lúc đó vũ trụ khai sinh (creation) và sự khai sinh này không
cần bàn tay của Thượng Đế mà chỉ
là hiện tượng của tự nhiên xảy ra một cách ngẫu nhiên
(randomness). Ở thời đại Boltzmann, thuyết Big
Bang chưa ra đời. Thuyết Big Bang ngày nay cho rằng vũ
trụ lúc khai sinh cực kỳ nhỏ có áp suất và nhiệt độ cực
kỳ lớn hàng tỉ độ và bùng nổ do sự dao động lượng tử mà
không cần sự can dự của Thượng Đế. Sự dao động lượng tử
xảy ra do ngẫu nhiên. "Không cần sự hiện hữu của Thượng
Đế để sáng tạo ra vũ trụ" là điểm
chung của thống kê Boltzmann và thuyết Big Bang. Có
chăng ai đó trong cộng đồng khoa học của thế kỷ 21 đã hay
đang chứng minh rằng vũ trụ trứng nước cực kỳ nhỏ có một
cấu trúc rất trật tự (entropy rất thấp) như Boltzmann kỳ
vọng?
Quan điểm thống kê về entropy dựa trên nguyên tử luận bị công
kích kịch liệt từ các khoa học gia thiển cận đương thời.
Boltzmann vừa bệnh tật vừa bị trầm cảm vì những lời chỉ
trích. Ông không có lối thoát và tự tử năm 62 tuổi (1906).
Như Maxwell, thiên hạ không quên Boltzmann vì lý thuyết của ông
theo thời gian càng chứng tỏ sự chính xác được chứng minh
bằng các kết quả thực nghiệm. Thậm chí Max Planck từng là
một nhân vật trong tập đoàn công kích Boltzmann, một cách
gián tiếp sau này phải công nhận phân bố thống kê của ông,
dù còn đôi phần miễn cưỡng. Planck đã áp
dụng phân bố Boltzmann vào lư thuyết "bó lượng tử" của mình
và mở ra một thời đại mới cho vật lý; đó là "Cơ học
Lượng tử".
Boltzmann được tôn vinh bởi các thế hệ tiếp nối của khoa
học gia như là một cột trụ to lớn của vật lý hiện đại.
Lần đầu tiên trong lịch sử khoa học, Boltzmann kết hợp thống
kê vào vật lý và cũng là một trong những người tiên phong
tạo ra bộ môn "Vật lý Thống kê" mà sau này hai nhà vật lý
người Nga, Landau và Lifshitz đã viết ra bộ kinh điển giáo
khoa lừng danh "Vật lý Thống kê" để giải thích nhiệt động
học bằng phương pháp luận vi mô và thống kê.
6. Claude Shannon:
entropy thông tin
Entropy của Boltzmann không chỉ loanh quanh với những con số
trong phạm trù vật lý mà ngày nay còn lan
rộng sang các ngành liên quan đến xác suất thống kê trong đó
có "thông tin". Nghĩa của cụm từ "thông tin" (information)
viết theo tiếng Hán Nhật là "tình
báo" (jyoho). Nhưng "tình báo" trong
tiếng Hán Việt và tiếng Trung mang nặng màu sắc quân sự
của "intelligence". "Tình báo" của tiếng Hán Nhật có
nghĩa thoáng hơn vì dù quân hay dân sự, nó chẳng qua là
việc "báo cáo sự tình"! Nhưng báo cáo sự tình có rất
nhiều cách. Trong chiến tranh dù xưa hay nay, tình báo chiếm
vị trí hàng đầu. Từ xưa, có mỹ nhân kế và cả "mỹ nam kế"
như trong chuyện tình lãng mạn bi đát Trọng Thủy Mị Châu.
Hay trần trụi hơn thì phe này cho người, thường có cái tên
rất đẹp là "thám tử", thập thò nấp trong bụi rậm, nín thở
dáo dác nhìn động tĩnh của phe kia rồi tất tả chạy về
báo cáo cho chủ tướng. Sáng tạo hơn thì
dùng chim bồ câu truyền đạt, kế đến là tín hiệu Morse.
Đến thời hiện đại có những nhân vật như James Bond và người
đẹp, vẫn là những chuyện sáo mòn "mỹ nhân kế" được tân
trang nhưng phản ánh ít nhiều hiện thực. Trong chiến tranh
nhân dân thì có cậu bé đánh giày, bà già bán hàng rong,
doanh nhân, ni cô thậm chí gái lầu xanh làm cái chuyện báo
cáo sự tình. Khi con người biết sử dụng các loại máy móc
vô tuyến thì tín hiệu thông tin được truyền tải bằng những
con "chim bồ câu" vô hình mang mật mã thông tin.
Trong bối cảnh này xuất hiện một nhân vật
lỗi lạc của thế kỷ 20. Đó là
Claude Shannon.
Shannon người Mỹ sinh năm 1916; một thiên tài hơi lập dị có
cuộc sống khép kín. Shannon không có giải Nobel, cũng không
được nhiều người nhắc đến như Newton hay Einstein, nhưng ông
là cha đẻ của cuộc "cách mạng số hóa" (digital revolution).
Ngày nay, chúng ta có máy vi tính,
điện thoại di động, internet, hệ thống viễn thông là từ công
trình của Shannon. Ông là một nhân vật của
"thời thế tạo anh hùng" rồi trở thành "anh hùng tạo thời
thế". Trong Thế chiến thứ hai, ông làm việc tại Bell
Labs trong công tác mã hóa (encryption) những thông tin cực
mật truyền tải bằng vô tuyến qua đường điện thoại, điện
tín xuyên Đại Tây Dương giữa hai thủ đô London và Washington.
Tài năng của Shannon khiến cho phe Đức càng lúc càng khó
khăn trong việc giải mã những thông tin từ phe Đồng Minh.
Sau khi Thế chiến chấm dứt, ông vẫn tiếp tục làm việc tại
Bell Labs.
Vào năm 1948, từ trải nghiệm "chiến trường" của Thế chiến
thứ hai ông đưa ra một vấn đề nan giải trong truyền thông: khi
ta gặp đường dây xấu bị nhiễu tạp âm, thì phương án nào có
thể truyền tải thông tin ít bị sai lầm nhất? Dường như ai
cũng có kinh nghiệm bị tạp âm trong những cú điện thoại
quốc tế trước khi cách mạng số hóa ra đời. Dựa trên kinh
nghiệm mã hóa truyền thông vô tuyến trong thời chiến, Shannon
nghĩ ra một phương án thống kê mã hóa các loại thông tin để
giảm thiểu sự nhiễu tạp âm. Ông đưa ra một ý tưởng đột phá
chưa từng có biến "thông tin", một thực thể trừu tượng,
thành đối tượng vật lý có thể định lượng, đo đạc, thao
tác, truyền tải. Trong một bài báo cáo có tựa dề là "A
Mathematical Theory of Communication" (Lý thuyết toán học
của truyền thông) đăng trên tạp chí kỹ thuật Bell Labs "The
Bell System Technical Journal", Shannon sử dụng hệ thống nhị
nguyên với hai con số 0 và 1 gọi là bit (chữ viết tắt
của binary digit, số nhị nguyên) là một
công cụ mã hóa. Một bức ảnh nhiều chi tiết, một bức tranh
nhiều màu, một quyển sách trong các thể loại ngôn ngữ kể
cả Hán tự là những mảng "thông tin" con người có thể mã
hóa bằng hai số 0/1 mà ngày nay là ngôn ngữ sử dụng trong
vi tính. Bài báo cáo chỉ hơn 50 trang nhưng
đã làm một cuộc cách mạng thay đổi lĩnh vực truyền thông
và cả sinh hoạt loài người, đến nay vẫn còn tiếp diễn.
Shannon đã viết ra một công thức để tính số lượng mã hóa
tính bằng bit cho một mảng "thông tin" bằng công thức
H =
åpilog2(1/pi)
(log2
là log có cơ số 2 chỉ định hệ thống nhị nguyên 0/1).
Sau khi tham vấn với von Neumann, nhà toán
học nổi tiếng đương thời, Shannon đã đặt tên hàm số của
mình là entropy thông tin (information entropy). Khi so
sánh với công thức Boltzmann (S = klogW), ta nhận thấy sự
tương đương giữa hai công thức của lý luận thống kê dù ý
nghĩa vật lý có khác nhau. Thật ra, công
thức Boltzmann là một trường hợp đặc thù của công thức
Shannon. Trong một thí dụ đơn giản sử dụng công thức
Shannon, tiếng Anh có 26 mẫu tự như vậy xác suất để có 1
mẫu tự là 1/26, để mã hóa 1 mẫu tự ta cần
log2(1/26) = 4,7 bit
cho việc tồn trữ hay truyền tải. Cụm từ "love you" (7
mẫu tự) cần 7x4,7 = 32,9 bits.
Shannon đã phát hiện ra quy luật của truyền thông.
Lý thuyết của ông mang đặc tính cơ bản
của quy luật tự nhiên. Nên ông là nhà khoa học. Ông
dùng toán thống kê để định lượng "thông tin", vốn là thực
thể trừu tượng. Nên ông là nhà toán học.
Nhưng bản chất của ông là một kỹ sư vì ông được động viên
bởi những vấn đề thực tế của công nghệ. Trớ trêu
thay, vào thập niên 90 của thế kỷ trước Shannon mắc bịnh
mất trí nhớ Alzheimer phải sống trong viện dưỡng lão nhiều
năm trong quãng đời còn lại. Một căn bệnh âm thầm tiêu diệt
những thông tin được tồn trữ và truyền tải trong não bộ.
Những kênh liên thông đến bộ nhớ của não dần dần bị thoái
hóa cho đến lúc mọi nỗ lực của não bộ bị tê liệt và
không còn tín hiệu nào từ cơ thể có khả năng tác động đến
trung tâm thần kinh. "Entropy nhiệt động học" của ông ngừng
gia tăng và ông qua đời vào năm 2001. Nhưng Shannon entropy vẫn
mãi sống trong trái tim của công nghệ thông tin, tiếp tục mang
hạnh phúc và tiện ích đến đời sống của con người. Sinh
thời Shannon sống khép kín không thích thế sự ồn ào, nên thiên
hạ ngày nay không ít người vô tư lẫn vô t́nh chưa biết đến công
tŕnh của Shannon, một thiên tài của thế kỷ 20.
7. Lời kết
Nhà vật lý thiên văn nổi tiếng Arthur Eddington có lần
ân cần nhắc nhở, "Quy luật entropy
lúc nào cũng gia tăng, theo tôi, nó giữ một vị trí tối
thượng trong các định luật tự nhiên. Nếu lý thuyết của bạn
đi ngược lại định luật thứ hai nhiệt động học, bạn chỉ có
sự vô vọng, nó không mang ý nghĩa gì cả mà sẽ sụp đổ
trong sự tột cùng sỉ nhục". Câu dặn dò chân t́nh dù
thoang thoảng mùi gia trưởng đã nói lên phần nào sức mạnh,
hay đúng hơn, địa vị thống lĩnh của nhiệt động học trong
khoa học. Thoạt đầu, đối tượng của nhiệt động học chỉ chú
trọng trong một phạm vi nhỏ hẹp liên quan đến những đặc
tính của nhiệt với những khái niệm vĩ mô về năng lượng,
entropy, nhiệt độ và áp suất. Theo dòng thời gian 200 năm,
nhiệt động học đã triển khai từ định tính đến định lượng,
từ vĩ mô đến vi mô. Năng lượng nhiệt đã
được định lượng bằng nhiệt độ và entropy được định lượng
dựa trên xác suất thống kê. Đường đi và đặc tính của
nhiệt là kết quả nghiên cứu từ cỗ máy cồng kềnh đầy hơi
nước đã nhanh chóng được quan sát, theo
nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, dưới góc nhìn phân tử/nguyên tử.
Những thành quả này nhanh chóng được thiết lập trong vòng
80 năm kể từ ngày Carnot khảo sát máy hơi nước nhờ vào
nhiều công trình nghiên cứu xuất chúng và tư duy suy luận
siêu việt không những của các nhà khoa học đề cập trong bài
viết mà còn có James Joule, Hermann von Helmholtz, Albert
Einstein, Josiah Gibbs. Tổng cộng tuổi đời
của Carnot, Maxwell, Boltzmann không hơn 150 năm nhưng ba nhà khoa
học này đã kiến tạo nên một nền móng vững chắc cho nhiệt
động học.
Các quy luật nhiệt động học ngày nay đã có ảnh hưởng sâu
rộng đến mọi bộ môn khoa học bao gồm vật lý, hóa học, sinh
học và các ngành công nghệ hóa học và công nghệ cơ khí.
Nhiệt động học cho ta biết những thao tác
của cơ thể động thực vật, hành xử của vật nhỏ nhất từ
nguyên tử, các tế bào sinh học đến thực thể to nhất như vũ
trụ. Nó cũng cho ta biết những chuyện gần xa, từ
việc gần gũi như vận tốc của âm thanh
mà chúng ta cảm nhận hằng ngày đến việc xa xôi như sự phát
xạ lỗ đen trong những dải thiên hà.
Cuối cùng là tính ngẫu nhiên trong nhiệt động học được thể
hiện qua sự tiêu tán nhiệt qua cách phân bố hỗn loạn của
phân tử.
Tính ngẫu nhiên nhiệt động đã được phát
hiện trước tính ngẫu nhiên lượng tử.
Ngẫu nhiên là thông số then chốt của nhiệt
động học lẫn lượng tử. Điều này
khẳng định thiên nhiên không thích trật tự. Ngẫu nhiên
cần thống kê để lý giải. Mà khi vật lý gặp thống kê thì
như cá gặp nước. Xuất phát từ Boltzmann và được triển khai
bởi Shannon, entropy đã vươn đến công nghệ số hóa, viễn thông,
kinh tế học và ngôn ngữ học. Bằng thống kê, Boltzmann và
Shannon phát hiện ra tính ngẫu nhiên của thế giới tự nhiên
và đã làm đúng theo "ý trời". Chân trời của vật lý thống
kê vẫn tiếp tục tỏa rộng mang những ứng dụng thực tiễn đến cho
loài người một cuộc sống tiện nghi và hạnh phúc. Boltzmann
đi trước thiên hạ nhưng bị người đời công kích, trầm cảm mà
chết. Giờ đây, trên cõi tiên chín tầng có lẽ ông đang nhìn
xuống trần gian khe khẽ gật gù, tủm tỉm ngồi cười…
Phụ chú
1. 1. Khi
một máy hơi nước có nhiệt độ ở nguồn nóng Th
là 100°C (373,15 K) và nguồn lạnh Tc là 0°C
(273,15 K). Ta tính được hiệu suất tối đa của chiếc máy hơi
nước là;
Hiệu suất (%) = [(Th – Tc)x
100]/ Th
= [(373,15 –
273,15) x 100]/ 373,15
= 27%
Công thức này cho thấy sự sai biệt (Th
– Tc) càng lớn thì hiệu suất càng lớn.
2. 2. Công
thức Gay-Lussac là công thức điển hình của hiện tượng luận
diễn tả sự liên hệ giữa áp suất, P, và nhiệt độ,
T, của thể khí chứa trong một thể tích nhất định, V.
Theo công thức này, ta có,
P/T = hằng số
Khi ta đun
nước ở 1 atm (khí áp bình thường) thì nước sôi ở 100°C.
Công thức trên cho thấy nếu nhiệt độ tăng thì áp suất tăng.
Ta dùng cái nồi áp suất nhà bếp để chứng minh điều này.
Nồi áp suất có thể đạt đến 1,3 atm
nên nước sôi ở 130°C. Trong nguyên tử luận, công thức
Gay-Lussac có thể diễn tả một cách rõ ràng hơn,
PV = NkT
hay
là,
P/T = Nk/V
N
là số lượng của phân tử khí trong thể tích V nhất
định, k là hằng số Boltzmann.
Nên Nk/V là một hằng số.
3. Ta
có 100 viên bi trong đó 50 viên bi đỏ và 50 viên bi xanh, tổng
cộng cách sắp xếp được tính theo phương pháp hoán vị
(permutation) là,
100!/(50!50!) = 1,01
x 1029
4. 3. Một
phân tử di động bởi nhiệt có vận tốc được tính bằng sự
tương đương giữa nhiệt biểu hiện bằng nhiệt độ T và
động năng bằng công thức sau,
1/2(mv2)
= 3/2(kT)
Nên,
v =(3kT/m)1/2
m
là khối lượng một phân tử, v là vận tốc di động của
phân tử, T là nhiệt độ và k là hằng số
Boltzmann.
Để tính v cho một phân tử nitơ có m = 4,7
x 10-26 kg; k = 1,38 x 10-23
J/molecule. Ta có,
v
= 490 m/s khi T = 273 K (0 °C)
v
= 508 m/s khi T = 293 K (20 °C)
v
= 573 m/s khi T = 373 K (100 °C)
v
= 645 m/s khi T = 473 K (200 °C)
Như vậy, vận tốc tăng bởi nhiệt lượng tăng và ngược lại.
Tài liệu tham khảo
1.
Paul Sen, Einstein fridge – The science of fire, ice and the
universe (2021), William Collins, London, UK.
2.
Paul Davies, The demon in the machine (2019), Allen Lane, UK.
3.
J. Natal et al, Entropy: From
Thermodynamics to Information Processing (2021), Entropy 23
1340.
Melbourne, 01/07/2022
(Đã đăng trên diendan.org)
|
|