Góp ư về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân Trần
Văn Thọ Giáo sư kinh tế học, Đại học Waseda, Tokyo <
Bài góp ư cho Ban nghiên cứu của Thủ tướng
và có đăng trên Tia Sáng, 9/2002 Qua bài viết ngắn
nầy, tôi muốn góp một ư kiến về vấn
đề có nên cho phép đảng viên đảng
cộng sản làm kinh tế tư nhân hay không,
một vấn đề đương có tranh
luận tại Việt Nam hiện nay. Lập luận
của những người không đồng ư cho
đảng viên làm kinh tế tư nhân cho rằng làm
kinh tế tư nhân là bóc lột lao động
bằng giá trị thặng dư, một hành động
không thể chấp nhận được nh́n từ
quan điểm của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa
xă hội. “Bóc lột lao động” nếu đúng
theo ư nghĩa mà chính người lao động
cảm nhận được theo thực tế khách
quan cũng là hành động đi ngược
lại những tiêu chuẩn về mặt đạo
đức. Nhưng vấn đề không đơn
giản. Bài viết nầy không
nhằm trực tiếp đi vào mặt lư luận mà
chỉ dựa trên quan điểm về kinh tế phát
triển và kinh nghiệm của Nhật, một nước
tư bản phát triển, để suy nghĩ về
ư nghĩa thực tiễn của vấn đề bóc
lột lao động trong thời đại ngày nay.
Vấn đề nầy dù phân tích từ góc độ
nào cũng phải đi đến một kết
luận tối hậu là làm sao để người
lao động ngày càng sung sướng, ngày càng có
một mức sống cao hơn. Mọi tư tưởng
và lư luận không đạt được mục
đích nầy đều không phù hợp với
sự phát triển của xă hội và đi ngược
lại lư tưởng vốn có của chủ nghĩa
xă hội, chủ nghĩa cộng sản. Bài viết
cũng sẽ đề cập đến ư nghĩa
của vấn đề giá trị thặng dư trong
thời đại kinh tế tri thức và cuối cùng
sẽ bàn trực tiếp đến vấn đề
đảng viên làm kinh tế. Vấn đề cơ
bản là ǵ? Giá
trị thặng dư theo chủ nghĩa Marx là
tổng sản phẩm xă hội trừ đi khấu
hao tư bản và tiền lương trả cho lao
động. Giá trị thặng dư nầy bao
gồm tiền lăi ngân hàng, tiền vốn chia cho
cổ đông và lợi nhuận của xí nghiệp. Thống kê hiện đại của Liên
Hiệp Quốc cũng có các mục tương
tự. Dựa trên cách tính thống kê hiện đại
nầy, thống kê của kinh tế Nhật cho phép phân
tích cấu tạo, đặc trưng và sự thay
đổi của các mục nầy trong quá tŕnh phát
triển kinh tế. Để đơn
giản hoá, ta gọi thu nhập quốc dân sau khi
đă trừ khấu hao tư bản là NI, tiền lương
trả cho người lao động là W và giá
trị thặng dư là SV: NI = W + SV Trong thể chế xă
hội chủ nghĩa (XHCN), các tư liệu sản
xuất do nhà nước nắm giữ nên tất
cả SV thuộc về nhà nước, c̣n thể
chế tư bản chủ nghĩa (TBCN) hoặc
thể chế của một nền kinh tế
nhiều thành phần (KTNTP), SV gồm ít nhất 3
phần: Lợi nhuận sau khi trừ thuế của xí
nghiệp tư nhân và xí nghiệp quốc doanh, thu
nhập của nhà nước từ thuế lợi
nhuận doanh nghiệp, và tiền lăi ngân hàng cộng
với cổ tức (Phần thứ ba nầy có
nhiều chủ sở hữu, trong đó có cả người
lao động v́ họ có tiền để dành
ở ngân hàng và có mua cổ phiếu của xí
nghiệp). Như vậy, cả thể chế XHCN và
TBCN đều có giá trị thặng dư (SV), chỉ
khác là nhà nước trực tiếp nắm hết
rồi phân phối lại hay là xí nghiệp tư nhân
và cá nhân nắm phần lớn (nhưng có sự
điều tiết của nhà nước qua chính sách
tài chánh). Đứng trên lập trường
của người lao động, v́ quyền lợi
của người lao động, ta thấy cần đặt
ra các vấn đề sau: (1) Làm sao để ngày càng tăng hay ít
nhất là không giảm tỉ lệ của phần
được chia cho lao động trong thu nhập
quốc dân (W/NI). Nói khác đi là làm sao để ngày
càng giảm hoặc ít nhất là giữ nguyên tỉ
lệ của giá trị thặng dư (SV/NI). (2) Làm sao để quy mô của thu nhập
quốc dân (NI) ngày càng tăng. Giữa trường
hợp người lao động được chia
phần lớn với cái bánh (NI) lúc nào cũng
nhỏ với trường hợp có ai đó với
tài trí và tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng đầu
tư ứng dụng công nghệ, khám phá thị trường
làm cho cái bánh ngày càng lớn th́ dù tỉ lệ
phần chia của người lao động có
thấp hơn, người lao động sẽ
chọn trường hợp thứ hai.
Hai vấn đề (1) và
(2) có vẻ dễ mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, dưới
một số điều kiện nhất định,
NI tăng nhanh (kinh tế phát triển) nhưng tỉ
lệ W/NI không giảm hoặc có khuynh hướng tăng. Kinh nghiệm Nhật
Bản: Trong hơn 100 năm qua,
kinh tế Nhật phát triển ra sao, NI đă tăng
như thế nào là vấn đề đă quá rơ.
Từ năm 1900 đến năm 1973, giá trị
thực chất của NI tăng 30 lần, trung b́nh tăng
5% mỗi năm trong suốt thời gian dài như
vậy. Trong thời gian đó dân số tăng
khoảng 3 lần, nên NI tính trên đầu người
tăng khoảng 10 lần. Tỉ lệ W/NI thay đổi
ra sao và ở mức nào trong các thời kỳ? Theo
nghiên cứu của Minami (1992), truớc 1945, tỉ
lệ nầy có khuynh hướng giảm. Nguyên nhân là
v́ có sự tồn tại của lao động dư
thừa quá nhiều, lao động cung cấp vô
giới hạn (unlimited supply), nên tiền lương
không tăng trong giai đoạn đầu của quá
tŕnh phát triển. Điều nầy được
chứng minh về mặt lư luận trong mô h́nh phát
triển của Lewis (1958) và được kiểm
chứng qua kinh nghiệm của nhiều nước.
Từ năm 1960, tỉ lệ W/NI của Nhật tăng
liên tục (tỉ lệ của giá trị thặng dư
giảm liên tục) v́, sau một thời gian dài phát
triển, lao động dư thừa không tồn
tại nữa mà ngược lại nền kinh tế
bước vào giai đoạn thiếu lao động
nên tiền lương thực chất tăng liên
tục sau đó. Sau đây thử lấy
một ví dụ về độ lớn của các
tỉ lệ về phần chia trong NI. Theo nghiên
cứu của Ono (1973), vào năm 1965 là năm kinh
tế Nhật đương ở vào giữa giai
đoạn phát triển thần kỳ, NI của nước
nầy có cơ cấu như sau: (a)
Tiền lương trả cho lao động
(kể cả tiền xí nghiệp trả bảo
hiểm xă hội cho lao động): 56,2% (b)
Thu nhập của chủ doanh nghiệp cá
thể, nghĩa là doanh nghiệp không thuê mướn
lao động: 23,5% (c)
Thu nhập từ tài sản cá nhân, trong
đó có tiền cho thuê nhà cửa, đất đai,
tiền lời gửi tiết kiệm, cổ
tức,...: 11,3% (d)
Thu nhập ṛng của các công ty pháp nhân: 9%
Trong đó: Thuế doanh
nghiệp và các phụ đảm xă hội của xí
nghiệp: 5% Tiền
lời lưu lại trong doanh nghiệp: 3,8% Tiền
xí nghiệp chuyển cho cá nhân: 0,2% Trong các
mục nầy, như đă nói ở trên, mục (a)
đă tăng liên tục từ năm 1960. Chẳng
hạn từ 1965 đến 1989, mục nầy tăng
từ 56% đến 68% (Theo N ishimura 1993). Ngoài ra,
tỉ lệ W/NI không phải chỉ là mục (a) mà c̣n
gồm phần lớn của mục (b) và một
phần trong mục (c). Khó rút ra con số chính xác
để xác định tỉ lệ W/NI hoặc
tỉ lệ giá trị thặng dư (SV/NI), nhưng
ta thấy thu nhập ṛng của các công ty pháp nhân
(mục d) có một ỉt lệ quá nhỏ, sau khi
trừ đi thuế doanh nghiệp và các khoản
chuyển cho cá nhân, tỉ lệ nầy chỉ c̣n dưới
4% vào năm 1965. Kinh
nghiệm Nhật cho thấy: Thứ
nhất, trong giai đoạn đầu của quá tŕnh
phát triển, phần chia cho người lao động
(W/NI) có khuynh hướng giảm. Về từng người
lao động cá biệt có thể có nhiều trường
hợp bị bóc lột giá trị thặng dư,
với ư nghĩa là năng suất lao động
của họ cao hơn tiền lương. Tuy nhiên,
những người lao động đó bị bóc
lột là để cứu những người lao
động khác có công ăn việc làm trong một
nền kinh tế c̣n dư thừa lao động
(hoặc nói khác đi là để chia công việc,
chia tiền lương giữa những người
lao động), và điều nầy lại tự nhiên
v́ do quy luật thị trường quyết định.
Các chính sách về việc định tiền lương
tối thiểu một cách máy móc chỉ giúp
những người may mắn có công ăn việc làm
hiện nay nhưng ngược lại làm cho nhu
cầu lao động giảm và do đó gây khó khăn
cho những người chưa có việc.
Thứ
hai, kinh tế tiếp tục phát triển th́ tỉ
lệ W/NI tăng. Để cải thiện vị trí
và đời sống của ngựi lao động,
phải tạo mọi điều kiện để NI
tăng liên tục. Không những cái bánh NI của
Nhật ngày càng to ra mà tỉ lệ của người
lao động được hưởng cũng
lớn hơn. Thứ
ba, tỉ lệ của thu nhập ṛng của doanh
nghiệp pháp nhân quá nhỏ, nhất là sau khi trừ
thuế. Nếu kể cả phần lớn của
cổ tức và một phần của tiền lăi ngân
hàng th́ tỉ lệ nầy cũng không lớn. Ngoài
ra, những phần nầy cũng có thể gọi là
thù lao chính đáng cho những nhà doanh nghiệp có
khả năng khám phá công nghệ, t́m kiếm thị
truờng, cải tiên kinh doanh, sản xuất. Thực
tế cho thấy nếu không có tinh thần doanh
nghiệp nầy kinh tế không phát triển và
cuộc sống của người lao động cũng
không được cải thiện. Ở đây cũng
cần nói thêm rằng, đă có nghiên cứu cho
thấy phân phối thu nhập của Liên xô cũ không
công bằng bằng phân phối tại các nước
tư bản tiên tiến sau khi thu nhập đă
trừ đi thuế. Không những Liên xô không đạt
đượic lư tưởng công bằng xă hội,
mà như ta đă thấy, kinh tế Liên xô tŕ
trệ và đi đến phá sản, cuộc sống
của người lao động ngày càng khó khăn. Vấn đề đảng
viên được phép làm kinh tế hay không? Trong nước hiện
nay có ư kiến không nên cho đảng viên làm kinh
tế tư nhân. Cũng có ư kiến cho rằng
nếu chỉ thuê mướn 10 người lao động
trở xuống th́ không bị coi là bóc lột lao
động. Tôi có mấy ư kiến
như sau: Thứ nhất, cho
rằng thuê mướn 10 người lao động
trở lên là bóc lột giá trị thặng dư, c̣n
dưới 10 người th́ không có hiện tượng
nầy là không có căn cứ khoa học. Mười
người hay một con số khác cũng là tuỳ
tiện, thiếu sức thuyết phục. Kinh
nghiệm của Nhật và nhiều nước khác th́
cho thấy t́nh trạng ngược lại. Nếu có
bót lột lao động th́ truớc hết là
tại các xí nghiệp nhỏ. Tại những xí
nghiệp nhỏ có số lao động ít (100 người
cũng thuộc loại quá nhỏ), tiền lương
thấp và điều kiện lao động cũng
xấu hơn so với các công ty lớn. Những công
ty quá nhỏ thường năng suất thấp v́
thiếu tài lực và uy tín để áp dụng công
nghệ mới, để huy động vốn
với điều kiện có lợi nhất. Việc
quản lư tại các công ty nhỏ cũng lỏng
lẻo, tổ chức công đoàn cũng không thể
phát triển nên địa vị người lao động
rất bấp bênh. Do đó những người có năng
lực đều đổ xô vào các công ty lớn.
Ở Nhật hiện nay, được vào làm
việc ở Sony, Toyota, Honda, v.v.. những công ty thuê hàng
vạn lao động, là giấc mơ của hàng
triệu sinh viên khi tốt nghiệp đại
học. Cần đứng trên lập truờng
của người lao động để phân tích
vấn đề. Ngoài ra, chỉ cho phép đảng viên
thuê mướn dưới 10 người tự nó cũng
mâu thuẫn: Có thể công ty của đảng viên
bắt đầu với số lao động dưới
10 người nhưng sau đó th́ sao? Chả lẽ
không cho công ty phát triển hơn trong tương lai,
hoặc khi công ty phát triển th́ giám đốc
phải ra khỏi đảng hoặc phải bỏ
nghề, hay là tụt xuống làm người lao động
thường? Thứ hai, lợi
nhuận của doanh nghiệp hoặc những
khoản thu nhập quốc dân không thuộc người
lao động gọi là giá trị thặng dư hay là
ǵ cũng được. Nhưng các khoản nầy
có thể coi là thù lao chính đáng của trí tuệ
và năng lực của những người có tinh
thần doanh nghiệp. Nếu phủ nhận nó, hay
chỉ chấp nhận nó trong thời quá độ, là
đi ngược lại với xu thế phát
triển hiện nay của loài người. Trong
thời đại ngày nay, các yếu tố sản
xuất truyền thống như tư bản, đất
đai, ... không quan trọng mà các yếu tố
mới như tri thức, trí tuệ, năng lực
tổ chức, quản lư mới là động
lực của sự tiến bộ. Ở nước
ta gần đây ai cũng nhấn mạnh sự quan
trọng của kinh tế tri thức, nhưng chẳng
lẽ lại phủ nhận tri thức của nhà
doanh nghiệp? Thứ ba, nếu một
mặt không cho đảng viên làm kinh tế tư nhân
và một mặt lại muốn phát triển đảng,
kết nạp ngày càng nhiều đảng viên hơn
th́ kết cuộc là bộ máy quản lư vốn
đă quá lớn sẽ ngày càng to hơn, v́ những
đảng viên có năng lực nhưng không
được làm kinh tế sẽ đổ xô vào làm
quan, làm quản lư, và chính họ sẽ là những người
ngăn cản mọi cải cách hành chánh (nhằm
tinh giản bộ máy quản lư), kể cả ngăn
cản các chương tŕnh cải cách các công ty
quốc doanh. Bộ máy quản lư của ta
hiện nay rất lớn bao gồm nhiều tầng
lớp từ trung ương đến địa phương
và trải rộng từ cơ quan nhà nước,
kể cả công ty quốc doanh, đến cơ quan
Đảng và các đoàn thể quần chúng. Bộ
máy quản lư quá lớn nầy cần phải
được tinh giản nhanh để giảm chi phí
gián tiếp nhằm tăng sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Tôi cho rằng đă đến lúc ta
cần phải giải thích hoặc tu chỉnh một
cách sáng tạo những lư tưởng ban đầu
của chủ nghĩa Marx để đưa ra
một lư luận phù hợp với sự phát
triển hiện nay của thế giới. Trung
Quốc cũng gặp phải vấn đề mâu
thuẫn giữa lư luận cổ điển và
thực tiễn sống động, nhưng họ
rất mạnh dạn dưa ra những giải thích
mới, những lư luận mới. Chủ trương
về ba đại biểu (Đảng cộng
sản phải đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, đại biểu cho phương
hướng tiến lên của nền văn hoá tiên
tiến và đại biểu cho lợi ích của
tuyệt đại đa số nhân dân) là một ví
dụ. Nằm gần một ông khổng lồ kinh
tế phát triển như vũ băo mà ta th́ không
mạnh dạn bằng họ trong việc đổi
mới tư tưởng th́ làm sao nhanh chóng thoát
khỏi nguy cơ tụt hậu? Các tư liệu dẫn
trong bài viết nầy: Lewis, Arthur, Economic Development with Unlimited
Supplies of Labor, The Manchester School of Economic and Social
Studies, 22, 1954. Minami Ryoshin, Nihon no keizai hatten (Phát
triển kinh tế Nhật Bản), Toyo keizai, 1992. Ono Akira, Sihon to Rodo no Bunpairitsu (Tỉ
lệ phân phối thu nhập cho lao động và tư
bản), Chương 4 trong Emi & Shionoya, chủ biên, Luận
về kinh tế Nhật, Yuhikaku, 1973. Nishimura Kiyohiko, Nihon Keizai to Keizaitokei
(Kinh tế Nhật và Thống kê kinh tế), JCER, 1993. * Bài lấy từ trang web chính thức của GS Thọ : http://www.f.waseda.jp/tvttran/
|