Trong bài
viết trước, người viết đã trình bày một số lý do tổng quát tạo nên sự
gia tăng của tín hiệu BOLD với hoạt động của não [1].
Não không
tồn trữ năng lượng; vì vậy hoạt động của
não tùy thuộc hoàn toàn vào sự cung cấp năng lượng từ lượng máu cục bộ.
Lưu lượng máu trong não (cerebral blood flow hay
CBF) và tỉ suất chuyển hóa của lượng oxy tiêu thụ (cerebral metabolic
rate of oxygen consumption hay CMRO2) đóng vai trò then chốt.
Mạch máu giãn nở rộng hơn; lưu lượng máu ở não CBF
cũng sẽ gia tăng nhiều hơn. Với lượng oxy
cung cấp nhiều hơn lượng oxy cần thiết, lượng oxy sẽ gia tăng – và màu
xanh ở Hình 1(a) giờ trở thành màu đỏ ở Hình 1(b). Điều sẽ xảy
ra khi sự gia tăng CBF vượt quá lượng tiêu thụ oxy. Kết quả là tín
hiệu BOLD tăng lên do sự gia tăng lượng huyết cầu tố (hemoglobin) được
oxy hóa.

Hình 1 (a
và b): Sự
phân phối của hemoglobin đựợc oxy hóa và hemoglobin khử oxy khi tế bào
não ở trạng thái tĩnh (Hình 1a) và trong trạng thái hoạt động (Hình
1b). Trong hình này, mao quản (capillaries) là những mạch máu nhỏ có
tường mỏng kết nối động mạch nhỏ (arterioles) với tĩnh mạch nhỏ (venules).
Qua mao quản, chất dinh dưỡng (nutrients) và chất phế thải (waste) có
thể hoán đổi giữa máu và mô cơ thể (body tissues) (Nguồn: Google
Images).
1.
Sự chuyển hóa háo khí và sự chuyển hóa kỵ khí
Lượng oxy rất cao trong máu ngay khi não
ở trạng thái tĩnh.
Não bộ chỉ chiếm 2-3% trọng lượng của
thân thể người lớn, nhưng tiêu thụ 20-25% tổng số lượng oxy cần thiết
của toàn cơ thể. Sự
chuyển hóa ở não (cerebral metabolism) cần cả hai quá trình: háo khí
(aerobic) và kỵ khí (anaerobic) để sản
xuất năng lượng cho tế bào (cellular energy) . Nói
chung, sự chuyển hóa háo khí (aerobic metabolism) cho ra 34
phân tử adenosine triphosphate ATP (một chỉ tiêu về số lượng oxygen và
glucose). Đây là một con số khá lớn. Trong khi đó,
sự chuyển hóa kỵ khí (anaerobic metabolism) không cần oxy và
chỉ tạo được 2 phân tử ATP cho mỗi phân tử glucose (glucose molecule).
Cơ cấu BOLD
dựa vào cả hai quá trình: chuyển hóa háo khí và chuyển hóa kỵ khí.
Trong quá trình chuyển hóa háo khí, lượng oxy được
cung cấp nhiều hơn hàm lượng cần thiết.
Ghi chú:
chữ “aerobic” thường dùng trong một số vận
động thể dục, dùng để ám chỉ việc vận động với khí oxy (háo khí), giúp
người tập thể dục có thể vận động được một thời gian dài.
Trong lúc aerobic workouts, cơ thể dùng lượng oxy
để tạo adenosine triphosphate - một phân tử tế bào nhằm cung cấp năng
lượng trong lúc chúng ta tập thể dục. Ngược lại chuyển hóa kỵ
khí thì khác! Trong quá trình chuyển hóa này,
lượng oxy sẽ không đủ để cho tế bào trong cơ thể tạo ATP dùng trong
năng lượng. Thay vì vậy, lượng đường phải
bị phá vỡ để cung cấp đủ năng lượng cho việc vận động và tạo một lượng
dư lactate trong quá trình.

Hình 2.
Quá trình chuyển hóa háo khí (aerobic metabolism)
và chuyển hóa kỵ khí (anaerobic metabolism) (Nguồn:
Malonek & Grinvald, 1998).
Trong hình
2(a), phản ứng hóa học cho thấy môt phân tử glucose cần 6 phân tử oxy.
Nhưng trên thực tế , tỉ số oxygen/glucose
là 5.5.
Trong hình
2(b), Malonek & Grinvald khảo sát lương huyết cầu tố được oxy hóa hay
oxy-Hb (màu đỏ- màu trong thí nghiệm khi ánh sáng soi vào) và lượng
huyết cầu tố khử oxy hay deoxy-Hb (màu xanh) trong não bộ con mèo (dùng
optical imaging). Như chúng ta có thể thấy từ hình
này, lúc đầu, có sự tiêu thụ oxy, nhưng sau đó, deoxy-Hb giảm xuống
trong khi oxy-Hb tăng lên. Có nghĩa là, mặc
dù có sư di chuyển lượng oxy đến vùng não bị kích hoạt, số lượng oxy
này rất nhỏ so với lượng oxy đã có ban đầu (trong trạng thái tĩnh).
Trên thực tế thì nguồn năng lượng trong
não hầu hết đến từ lưu lượng máu cục bộ.
Và lượng máu này cung cấp với một số lượng oxy rất
nhiều so với số lượng đòi hỏi. Kết quà là lượng máu với oxy gia
tăng đưa đến sự gia tăng tín hiệu BOLD. Và khu vực có hoạt động não sẽ
sáng hơn là khu vực não ở trạng thái tĩnh. Hình tương phản (image
contrast) ở BOLD đạt được do sự biến đổi hàm lượng máu cục bộ
(changing regional blood concentrations) của oxy-Hb và deoxy-Hb. Giá
trị cục bộ của thời gian hồi giãn T2* cũng sẽ gia tăng ở vùng não hoạt
động. Thêm vào đó, độ tương phản còn tùy thuộc vào
sức mạnh từ (field strength), tần số xung (pulse sequence) và thời
vang TE.
2.
Kết quả thực nghiệm về sự liên hệ giữa tín hiệu BOLD và hoạt động của
não
Kết quả
thực nghiệm của GS Nikos Logethetis ở Max Plack Institute cho thấy một
sự liên hệ khá mật thiết giữa tín hiệu BOLD và hoạt động não (Hình 3).

Hình 3.
Tín hiệu BOLD từ fMRI (màu đỏ) tương ứng khá tốt với tín hiệu của
não bộ (màu đen) mặc dù có sự trì hoãn về thời gian đáp ứng (Nguồn:
Nikos K. Logethetis, Max Planck Institute (2001) [2]
RMS:
root mean square (indicating the existence of neural activity)
mETP:
mean extracellular field potential
Trong hình 3, đường cong màu đỏ biểu
hiện sự biến đổi tín hiệu của fMRI; trong khi đó đường cong màu đen
chỉ định tín hiệu của não được ghi nhận từ những phương pháp khác.
Cả hai hình đều biểu hiện một đỉnh cao (peak) mặc
dù có một sự trì hoãn về thời điểm nơi sự phản ứng xảy ra.
3.
Kết từ
Đã mất cộng động
khoa học nhiều năm trước khi tìm được lý
do để cắt nghĩa hiện tượng về sự gia tăng tín hiệu BOLD với hoạt động
của não bộ.
Hai ông Fox và
Raichle đã tìm được giải đáp sự nghịch lý của hiện tượng BOLD
và xác định rằng khi tế bào não bi kích
hoạt, mạch máu nới rộng ra; lượng oxy hóa mới được cung cấp trở nên
nhiều hơn lượng máu cần thiết [3]. Sau khám phá
này, nhiều lý luận và thí nghiệm đã được thực hiện; điển hình nhất là
kết quả thí nghiệm của Nikos K. Logethetis.
Ông này đã tìm được một sự tương ứng khá
mật thiết giữa tín hiệu fMRI với tín hiệu của não bộ mặc dù có sự
chậm trễ về thời gian phản ứng. Kết quả này là một bằng chứng cụ thể
chứng tỏ rằng cộng hưởng từ chức năng fMRI có thể dùng như một công cụ
không xâm lấn hữu hiệu để khảo sát các hoạt động của não bộ.
4.
Tài liệu tham khảo
[1] http://www.erct.com/2-ThoVan/TTriNang/Technology%20in%20Medicine-%20Part%2030-Taisao.htm
[2]A.
Schurr and E. Gozal.
Aerobic Production and Utilization of
Lactate Satisfy Increased Energy Demands Upon Neuronal Activation in
Hippocampal Slices and Provide Neuroprotection Against Oxidative
Stress.
Front Pharmacol. 2011: 2: 96
Published online 2012 Jan 13.
doi: 10.3389/fphar.2011.00096
PMCID:
PMC3257848
PMID:
22275901
[3] M.D. Fox and M. E. Raichle.
Spontaneous
fluctuations in brain activity observed with functional magnetic
resonance imaging
.
2007 Sep;8(9):700-11.
doi:
10.1038/nrn2201.
February 25, 2023
|