|
Trong những bài viết trước [1-3], chúng
tôi đã trình bày cơ cấu, những thành phần quan trọng và đặc tính của
những thành phần này trong máy chụp cộng hưởng từ MRI. Trong bài viết
này, chúng tôi sẽ trình bày một số đặc tính khác về tính siêu dẫn của
thỏi nam châm. |
|
1.
Hiệu ứng Meissner
Tính siêu
dẫn là một
đặc tính không bình thường của một số kim loại, hợp chất, và ceramics
với điện trở biến mất hoàn toàn ở một nhiệt độ tới hạn Tc (critical
temperature) và ở một áp suất khác nhau.
Trong Bảng tuần hoàn (Bảng 1), những chất có màu xanh dương co thể có
tính siêu dẫn ở áp suất không khí tiêu chuẩn; trong khi những chất với
màu xanh lá cây có tình siêu dẫn ở một áp suất cao [4].

Bảng 1.
Những chất có màu xanh dương có thể có tính siêu dẫn ở áp suất
không khí tiêu chuẩn; trong khi những chất với màu xanh lá cây có tình
siêu dẫn ở một áp suất cao [4]
Đặc tính
của chất có tính siêu dẫn là điện trở giảm một cách đột ngột xuống còn
zero (điện trở hoàn toàn biến mất!) khi ở một nhiệt độ tới hạn Tc. Với
những chất dẫn điện thông thường, điện trở giảm khi nhiệt độ giảm tuy
nhiên điện trở không biến mất hoàn toàn (Hình 1a)
Năm 1933,
hai nhà khoa học gia người Đức Walther Meissner và Robert Ochsenfeld
đã khàm phá ra một hiện tượng xác định rằng từ thông (hay từ trường
xuyên qua) hoàn toàn bị đẩy ra khỏi vật siêu dần (được biết như đặc
tính thứ hai hay hiệu ứng Meissner của chất siêu dẫn, và sẽ được trình
bày ở phần dưới). Và từ trường từ vật siêu dẫn bù trừ từ
trường bên
ngoài. Thành ra từ trường không thông qua
được vật siêu dẫn (Hình 1b). Hiện
tượng này có thể cắt nghĩa như sau: Chất siêu dẫn có độ nghịch từ.
Có nghĩa là chất siêu dẫn bị đẩy lùi mạnh
vì có xu hướng đẩy từ trường ra.
Khi từ trường được áp đặt trên một vật thể, dòng điện xoáy (eddy
current) sẽ giảm nhanh chóng do điện trở của
vật thể. Đồng thời, theo
định luật Lenz, dòng Foucault (hay eddy current) có khuynh hướng chống
lại sự chuyển động tạo ra nó. Nhưng trong
trường hợp chất siêu dẫn vì điện trở không có, nên dòng điện không suy
giảm.
Thế nên, lực kháng cự của vật siêu dẫn (nam châm) không suy giảm và
đẩy tử trường ra, đưa đến tình trạng nam châm bị treo lơ lửng (Hình
1b, c và d).
Trong trường hợp với
một từ trường mạnh thì sức đẩy này sẽ bị yếu thế và các đặc tính của
chất siêu dẫn bị phá hủy đi [5-7].

Hình 1.
(a)
Đặc
tính của chất có tính siêu dẫn là điện
trở hạ một cách đột ngột xuống còn zero (điện trở hoàn toàn biến mất)
khi ở một nhiệt độ tới hạn Tc (critical temperature). Trong trường
hợp của YBa2Cu3O7,Tc=93K.
Với những chất dẫn điện
thông thường, điện trở giảm khi nhiệt độ giảm tuy nhiên điện trở không
biến mất hoàn toàn.
(b) Lực
kháng cự của vật siêu dẫn không suy giảm và đẩy tử trường ra, đưa đến
tình trạng nam châm treo lơ lửng.
(c)
và (d) Trong
trường hợp chất siêu dẫn, vì điện trở không có, nên dòng điện xoáy
(eddy current) không suy giảm. Thế nên, lực kháng cự của vật siêu dẫn
không suy giảm.
Nói một cách khác, khi T<Tc, lực đặt trên
thỏi nam châm là do dòng điện xoáy.
2.
Chất siêu dẫn loại I và loại
II
Chất siêu
dẫn loại I thường được làm bằng kim
loại nguyên chất.
Những chất này có tính nghịch từ
(diamagnetism).
Tính nghịch từ là từ trường phản ứng (reaction magnetic field) tạo bởi
chất kim
loại nguyên chất (pure metal) nằm nghịch hướng với từ trường áp đặt (Hình
2a & 2c).
Khi được
làm lạnh xuống dưới nhiệt độ tới hạn (nhiệt độ đưa đến trạng thái siêu
dẫn), điện trở trở thành zero và chúng ta có thể đạt được một độ từ
tính hoàn hảo. Và theo
hiệu ứng Meissner, từ trường xuyên qua (hay từ thông) sẽ bằng không.
Chỉ có một từ trường tới hạn mà thôi (từ trường tới hạn là từ trường
giới hạn biểu hiện sự biến đổi giữa trạng thái siêu dẫn và trạng thái
không siêu dẫn)!
Chất
siêu dẫn loại
II thường làm bằng hợp kim, hoạt động giống như chất siêu dẫn loại I,
tuy nhiên tính nghịch từ hoạt động khác hơn.
Có hai từ trường tới hạn.
Có nghĩa là có hai lần biến đổi trạng thái
siêu dẫn. Chất siêu dẫn loại II
này sẽ vào ở trạng thái pha siêu dẫn (the superconducting phase) ở một
nhiệt độ tới hạn đặc biệt giống như chất siêu dẫn loại 1; ngoại trừ sự
kiện là khi nhiệt độ hạ xuống thấp thêm nữa,
chất liệu này
sẽ rơi vào trạng thái pha bán siêu dẫn (semi-superconducting phase) (Hình
2b & 2d). Khi nhiệt độ tăng thêm trở lại, vật chất sẽ trở lại trạng
thái siêu dẫn ban đầu [8].

Hình 2.
Sự biến đổi của từ trường với nhiệt độ
trong trường hợp của chất siêu dẫn loại I (Hình 2a) và chất siêu dẫn
loại II (Hình 2b).
Chất siêu
dẫn loại I có một từ trường tới hạn (Hình 2c); trong khi đó chất siêu
dẫn loại II có hai từ trường tới hạn (Hình 2d)[8].
Để xác định
thể loại của chất siêu dẫn, cách tốt nhất là áp đặt từ
trường lên
chất siêu dẫn. Đối với hai loại siêu đẫn, áp đặt từ
trường sẽ tạo
ra lực đẩy (expulsion) như dự đoán. Đối với chất siêu dẫn thuộc loại
I, gia tăng từ trường áp đặt sẽ gia tăng sức đầy gây ra bởi chất siêu
dẫn theo
dạng tuyến tính. Đối với chất siêu dẫn loại II, sự liên
quan giữa từ
trường áp đặt và lực đẩy cũng sẽ giống nhau; tuy nhiên ở một từ trường
tới hạn (critical field) có một giá trị riêng biệt, sức đẩy sẽ bị
phá vỡ và sẽ rơi vào vùng vortex (vortex region) nơi mà lực đẩy trở
thành hỗn loạn và không ổn định. Giống như trường hợp của nhiệt độ,
chất siêu dẫn loại II sẽ đi vào pha
siêu dẫn bình thường (normal superconducting phase) nếu có đủ lượng từ
trường áp đặt. Bảng 2 tóm tắt sự khác nhau
giữa chất siêu dẫn thuộc loại I và loại II.

Bảng 2.
Tóm tắt sự khác nhau về đặc tính giữa chất siêu dẫn thuộc loại I và
loại II [9]
3. Ba đặc tính của chất
siêu dẫn
Chất siêu
dẫn có ba đặc tính dưới đây:
Đặc tính
thứ nhất
Nếu cho một
dòng điện chạy vào mạch điện làm bằng chất siêu dẫn, năng lượng điện
sẽ không bị tiêu hao trong quá trình truyền tải do không có sự trở
kháng.
Đặc tính
thứ hai
Những chất siêu dẫn
nhiệt độ thấp có thể tạo ra những từ trường rất mạnh.
Đặc tính
thứ ba
Đặc tính
thứ ba của chất siêu dẫn là: Nếu hai chất siêu dẫn được đặt gần nhau (nhưng
không
va chạm vào nhau), các điện tử có thể nhảy qua như thể hai chất dẫn
điện ấy tiếp xúc với nhau. Chỗ mà dòng điện
chạy qua được gọi là "khớp nối Josephson".
Hiện tượng này được khám phá ra bởi TS
Brian D. Josephson thuộc Đại học
Cambridge vào năm 1962.
Ông này lãnh giải Nobel Vật lý vào năm 1973
về hiện tượng này [3].
4.
Lời kết
Chúng tôi
đã trình bày hiệu ứng Meissner, sự khác nhau
giữa loại I
và loại II và ba đặc tình của chất siêu dẫn. Cặp Cooper trong lý
thuyết BCS chỉ có thể dùng để cắt nghĩa chất siêu dẫn loại I. Hiện tại
vẫn chưa có một lý thuyết nào có thể cắt nghĩa chính xác cơ cấu vận
hành của chất siêu dẫn loại II.
5. Tài liệu
tham khảo
[1] http://www.erct.com/2-ThoVan/TTriNang/Technology%20in%20Medicine-%20Part%2012-09012021.htm
[2] http://www.erct.com/2-ThoVan/TTriNang/Technology%20in%20Medicine-%20Part%2015-12222021.htm
[3]
http://www.erct.com/2-ThoVan/TTriNang/Technology%20in%20Medicine-%20Part%2016-02042022.htm
[4]
https://mriquestions.com/superconductivity.html
[5]
https://www.youtube.com/watch?v=CEUo9VswoVI
[6]
https://www.youtube.com/watch?v=NVeAmKUbXvA
[7]
https://science.howstuffworks.com/mri.htm
[8]
https://www.doitpoms.ac.uk/tlplib/superconductivity/type.php
[9]
http://hyperphysics.phy-astr.gsu.edu/hbase/Solids/scond.html
February 20,
2022
|