|
Máy chụp X-quang
cắt lớp vi tính (Computed Tomography-CT) hay chụp X-quang cắt lớp vi
tính trục ngang (Computed Axial Tomography-CAT) là
một thiết bị công nghệ được sử dụng trong cộng đồng y tế để chẩn đoán
xạ hình. Máy này còn được biết với nhiều tên khác nhau như chụp cắt
lớp điện toán theo trục ngang, chụp cắt lớp điện toán, máy chụp cắt
lớp hay ngắn gọn hơn gọi là máy chụp CT. Đây là một phát minh lớn
trong lãnh vực xạ hình y học. Thuật ngữ “Tomography” gồm có từ “tomo”
có nghĩa là cắt lát; và “graphy” có nghĩa
là in hình. “Tomography” vì thế có nghĩa là in
hình cắt lát. Trong quá trình chụp cắt lớp vi tính, X-quang
quét lên một khu vực của cơ thể bằng cách phóng một chùm tia X qua
người theo lát cắt ngang; bộ cảm biến đo cường độ tia X còn lại sau
khi xuyên qua cơ thể bệnh nhân và cung cấp dữ liệu vào máy tính, để có
được hình ảnh hai chiều (2D) hoặc ba chiều (3D) với những đậm độ
(density) khác nhau của bộ phận cần khảo sát.
Sản phẩm chụp cắt lớp vi tính đầu tiên
trên thị trường được tạo ra bởi nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Godfrey
Hounsfield ở EMI Laboratories vào năm 1972
(Hình 1, phía dưới, bên trái). Ông phát minh kỹ thuật CT dựa vào mô
hình toán học của Johann Radon (1917) và độc lập với công trình nghiên
cứu tương tự của Allan Cormack, Tufts
University ở
Mỹ (Hình 1, phía dưới bên phải) . Hounsfield và
Cormack nhận giải Nobel về Y học về công trình nghiên cứu CT vào năm
1979. Với sự thành công này Hounsfiled được Hoàng Gia Anh ban
cho ông danh xưng Sir Godfrey Hounsfield.
|
|
1. Sự phát
minh máy chụp cắt lớp vi tính
1.1 Vài nét
tổng quát về máy chụp cắt lớp vi tính
Một trong những sự
khác nhau chính giữa CT và digital breast tomosynthesis (DBT)- công
nghệ mà chúng tôi trình bày trong những bài viết trước- là nguồn X-quang
quay 360 độ trong trường hơp của CT; trong khi đó với DBT, nguồn X-quang
chỉ quay một vòng cung 15-25 độ . Về lượng bức xạ
tia X, chụp cắt lớp vi tính có nhiều phóng xạ hơn chụp X-quang,
nhưng nói chung liều lượng khá thấp không đến nỗi có thể gây nên bệnh
ung thư, bệnh bạch huyết cầu hay gây ảnh hưởng không tốt cho cơ thể. Ở
một số trường hợp cần dùng thuốc cản quang trong lúc chụp CT, bệnh
nhân có thể có những dị ứng như cảm giác nóng bừng, nhức đầu, khó chịu
hay miệng cảm thấy đắng; nhưng những dị ứng này thường biến mất một
thời gian ngắn sau khi chụp xạ hình.
Chợt thoáng nhìn,
máy vi tính như một cái vòng tròn lớn (hay
còn gọi là bánh rán) có đường kính khoảng 60-70 cm. Bên trong là một
chiếc bàn dài cho bệnh nhân nằm giữa nguồn phát tia X và một dãy bộ
cảm biến X-quang (đôi khi gọi là đầu dò). Trong quá
trình chụp CT, bệnh nhân được hướng dẫn
đến nằm trên một chiếc bàn. Máy quét CT gửi tia
X qua cơ quan cần chẩn đoán. Mỗi vòng quay của máy
quét cung cấp hình ảnh của một lát mỏng. Tất cả dữ liệu chụp
được qua nhiều lát sẽ được kết hợp lại và dùng để tái tạo hình ảnh của
cơ quan trong cơ thề bằng máy vi tính.
1.2 Ban nhạc
“The Beatles” và sự ra đời của máy chụp cắt lớp vi
tính
Đây là một đề tài
khá thú vị liên quan đến mối dây liên hệ giữa một ban nhạc nổi tiếng
nhất thế giới vào thập niên 60’s và một phát minh lớn trong lãnh vực
xạ hình y khoa (medical imaging).
Câu chuyện xảy ra như
thế này: Abbey Road Studios thuộc hãng Electric and Music Industries
(EMI) là nơi thu băng và đưa ban nhạc The Beatles (Hình 1, phía trên)
lên hàng những ngôi sao sáng hàng đầu trong vòm trời âm nhạc của thế
giới. Hãng này dùng số tiền bán đĩa nhạc của ban nhạc “The Beatles”
như “Can’t Buy Me Love”, “PS I Love You”, “Love Me Do” để tài trợ đề
án nghiên cứu có cái tên là “ The EMI Scan”. Vô tình chung,
sự thành công của “The Beatles” đã đưa
đến sự phát minh CT quan trọng này (Hình 1). Đúng là một sự kết nối
ngẫu nhiên và hài hòa giữa âm nhạc và khoa học hiếm có trong lịch sử!
1.3 Vài nét
về Sir Godfield Hounsfield (1919-2004)
Hounsfield sinh ra ở Sutton-on-Trent,
Nottinghamshire, Anh Quốc vào năm 1919.
Ông rất thích mở ráp những bộ phận điện và cơ khí
ngay từ khi còn nhỏ. Vì sống trong gia
đình nhà nông, nên ông cũng thường tu sửa máy móc khi cần.
Ông gia nhập Không Lực Hoàng gia Anh ngay trước
khi Đại chiến Thứ Hai bùng nổ; ở đó ông được huấn luyện về cơ bản điện
tử và ra đa. Sau khi chiến tranh chấm dứt,
ông đi học trở lại và tốt nghiệp về nghành điện ở
Faraday House
Electrical Engineering College ở London.
Ông đến làm việc cho hãng Electrical and Musical
Industry (EMI) từ năm 1951. Ở đây ông tham gia vào công tác
nghiên cứu về hệ thống dẫn hướng ra-đa (guided radar system).
Ông cũng bắt đầu quan tâm đến lãnh vực điện toán
từ năm 1958; và giúp lắp đặt máy điện tóan dùng toàn tranzito; sản
phẩm này được đưa ra thị trường dưới cái tên EMIDEC.
University of London trao ông bằng tiến sĩ danh
dự vào năm 1975 về phát minh CT. Từ năm 1986 trở đi, ông làm cố vấn
cho Thorn EMI Limited Central Research [1,2].

Hình 1.
Vô tình chung, ban nhạc “The Beatles” (hình
trên, từ trái sang phải: Paul McCartney, John Lennon, Ringo Starr và
George Harrison) đã cung cấp nguồn tài trợ cho sự nghiên cứu và phát
minh máy chụp CT của TS Godfrey Hounsfield (hình dưới bên trái). GS
Allan Cormack, Tuffs University ở Mỹ (hình dưới, bên phải) cũng phát
biểu độc lập công trình nghiên cứu tương tự (Google Images).
1-4
Về phát minh CT
Theo
ông Hounsfield, ý tưởng về CT đến với ông trong thời gian ông đi nghỉ
mát. Lúc đó, ông muốn
tìm một phương pháp để khảo sát nội dung
trong một chiếc hộp dùng hình ảnh X-quang 3D. Ông dự tính thực
hiện điều này bằng cách dàn dựng lại hình
ảnh trong chiếc hộp qua sự tổng hợp của nhiều lát hình (slices). Với
tài trợ của hãng EMI, nhóm của ông đã thành công trong việc thiết lập
thành công mẫu hình thử nghiệm (prototype) CT
dưới tên Brain Scanner (Hình 2, bên trái). Nhằm đưa Brain Scanner lên
hàng những công cụ chính trong lãnh vực xạ hình y tế, ông tiếp xúc với
James Ambrose, một bác sĩ của Bệnh viện Atkinson’s Moley, và cố gắng
thuyết phục ông này làm cố vấn trong việc chế tạo máy chụp CT để dùng
trong việc chẩn đoán bệnh nhân. Lúc đầu Ambrose từ chối vì cho rằng
những gì Hounsfield đang làm là viễn vông; nhưng sau cùng cũng đồng ý.
Hounsfield dùng Brain Scanner để khảo sát những bộ phận sinh học
(organs) được bảo quản của con người và
súc vật. Và bệnh nhân đầu tiên được chẩn đoán dùng
EMI Brain Scanner là một người phụ nữ bị ung thư não; và hình
não bộ được biểu hiện ở Hình 2 (bên phải). Bác sĩ dùng bộ máy scanner
đầu tiên trên thế giới (Hình 3) chính là James Ambrose vào ngày 1
tháng 10 năm 1971 tại bệnh viện Atkinson’s Moley (Hình 4).
Mỗi lần quét (scan) mất khoảng 5 phút trên một ma
trận (matrix) 80x80 điểm ảnh. Cần khoảng 9 tiếng đồng hồ để càn
quét mỗi lát và vài ngày để hoán tất quy trình tái tạo xạ hình của não
với những dữ liệu đạt được. Vào năm 1968 Hounsfield nhận được
bằng sáng chế về CT ( UK Patent No.
1283915) với tựa đề "A Method of and Apparatus for Examination of a
Body by Radiation such as X or Gamma Radiation".

Hính 2.
Mẫu hình thử nghiệm của EMI Brain Scanner (hình
bên trái). Bác sĩ James Ambrose
chẩn đoán dùng CT Scanner đầu tiên trên
thế giới để chẩn đoán bệnh ung thư não của một người phụ nữ vào ngày 1
tháng 10 năm 1971 (hình bên phải) [3].
Sư thành công của CT Scanner ở Atkinson
Morley
Hospital sau
đó được báo cáo trong cộng đồng y khoa vào nằm 1973. Khảo sát lâm sàng
với máy chụp CT đầu tiên tại Mỹ được thực hiện tại Mayo Clinic ở Mỹ
vào năm 1973. CT Scanner đầu tiên được tung ra thị
trường , dưới tên EMI CT1000 dùng để chụp hình đầu (Hình 5 và
Hình 6). Vào năm 1975, EMI
đưa ra thị trường CT 5000 dùng để chụp toàn cơ thể; máy này được thiết
lập tại Bệnh viện Northwick Park ở thành phố London.
Vào tháng 10 cùng năm, một máy CT tương tự được
thiết lập tại Mallinkrodt Institute. So với máy chụp CT đầu
tiên của EMI, thời gian quét (scan time) đã giảm xuống từ 5 phút
xuống còn 20 giây với một ma trận gồm 320x320 điểm ảnh . Sau thí
nghiệm lịch sử này và nhờ sự phát triển của máy
vi tính , công nghệ chụp hình cắt lớp đã
tiến bộ khả quan với nhiều hãng tham gia: 16 hãng chế tạo máy
CT vào năm 1976, với hơn 200 máy scanners tại Mỹ vào năm 1978.
Vào thập niên 80’s,
thời gian quét giảm xuống còn 3 giây và kích thước ma trận (matrix
sizes) cũng tăng lên đến 1,024 x 1,024 điểm ảnh; và
số hình CT scans đã đạt tới con số ba triệu
[4-6]. Máy quét hình xoắn ốc (spiral scanners) và
máy quét nhiều lát (multi-slice scanners) cũng phát triển mạnh vào
thập niên 90’s.
Hình 7 biểu hiện một máy cắt lớp
vi tính của Canon, đại biểu cho sự phát
triển nhanh chóng của máy chụp cắt lớp vi tính trong giai đoạn này.

Hình 3.
Máy chụp CT lịch sử đầu tiên do EMI chế tạo [3].

Hình 4.
Bác sĩ James Ambrose (người bên phải) với tiến sĩ Godfrey
Hounsfield
(Hình chụp vào ngáy 1 tháng 10 năm 1971, Google Image)

Hình 5.
Godfrey Hounsfield đứng bên cạnh máy chụp cắt lớp
vi tính
đầu tiên trên thế giới
EMI
CT 1000 [4]

Hình 6.
Tạp chí quảng cáo sản phẩm chụp CT của hãng EMI Medical
với chữ ký
của tiến sĩ Hounsfield ở góc trên phía bên
phải [7].

Hình 7.
Một máy chụp cắt lớp vi tính hiện đại:
Aquilion Precision CT Scanner (Canona
Medical Systems ) [8].
2. Chụp hình X- quang cắt lớp
vi tính
Chụp hình X-quang
cắt lớp vi tính có thể dùng để khảo sát bất
kỳ các bộ phận nào trong cơ thể con người. Chẳng hạn như chụp sọ não (Hình
8 ) để xác định nguyên nhân của đột quỵ hay chấn thương đầu, phát hiện
và xác định vị trí của khối u, chụp hình ảnh của ngực (Hình 9 ) để
khảo sát phổi, tim, động mạch, chụp bụng để khảo sát viêm ruột, nhiễm
trùng, và chụp gan và đường tiết niệu.
So với chụp X-quang
thông thường, chụp CT cho hình rõ nét hơn ,
đặc biệt là hình mô mềm trong cơ thể. Khả năng tạo cấu trúc 3D nhằm
giúp công tác chẩn đoán và sàng lọc của bác sĩ X-quang (hay còn gọi là
bác sĩ chẩn đoán xạ hình) được hiệu quả hơn. Một lợi điểm nữa là hình
ba chiều 3D hay có thể triển khai đến 4D (với thời gian và sự di động)
hay 5D (với động lực học chất lưu /fluid dynamics và lưu lượng máu)
trở nên một công cụ tiện lợi trong việc
giảng dạy ở các trường đại học y khoa hay các viện nghiên cứu (Hình
10).

Hình 8.
Hình ảnh cắt lớp não với máy chụp cắt
lớp vi tính [4].

Hình 9.
Hình cắt lớp phổi với máy chụp cắt lớp
vi tính [4].
Hình 10.
Hình ảnh của máy chụp cắt lớp vi tính:
4D (với thời gian- sự di động-như ở nội soi huỳnh quang fluoroscopy)
and 5D (với động lực học chất lưu và lưu lượng máu) [9-10].
3. Kết từ
Từ khi máy EMI CT
1000 ra đời vào năm 1972, kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính đã tiến bộ một
cách rất khả quan nhờ sự phát triển của công nghệ điện tử và điện
toán. Chụp cắt lớp vi tính có thể được sử
dụng để nghiên cứu tất cả các bộ phận của cơ thể từ đầu đến chân,
chẳng hạn như ngực, bụng, xương chậu hoặc cánh tay hoặc chân. Máy chụp
CT này cũng có thể chụp các cơ quan khác như sọ não, tim, gan,
thận , xương và mạch máu.
Ở một số trường hợp, thuốc nhuộm (thuốc cản quang)
được đưa vào tĩnh mạch để cho bác sĩ X-quang có thể quan sát dễ dàng
hơn. Nội soi huỳnh quang (fluoroscopy) cũng có thể sử dụng để
bác sĩ X-quang có thể quan sát chuyển động
của các bộ phận bên trong cơ thể.
Trong bài viết tới,
chúng tôi sẽ trình bày về các giai đoạn phát triển của máy chụp cắt
lớp vi tính từ thế hệ thứ nhất đến thế hệ
thứ bảy và có thể những thề hệ kế tiếp dựa vào những thành công vượt
bực của kỹ thuật và khoa học.
4. Tài liệu
tham khảo
[1] K.B. Bhattacharya :
Ann Indian Acad Neurol. 2016 Oct-Dec; 19(4): 448–450.
[2]
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5144463/
[3] Source:
Lukas Miksik, KZMFN Motol
[4]
https://catalinaimaging.com/history-ct-scan/
[5]
Bhattacharyya KB.
Eminent Neuroscientists: Their Lives &
Works.
Kolkata: Academic Publishers; 2011.
[Google
Scholar]
[6]
Godfrey
N. Hounsfield – Biographical.
Nobel Media AB.
2014. Available
from:
http://www.nobelprize.org .
[7] Source: Prof. Adrian Thomas, British
Institute of Radiology.
[8]
omnia-health.com
[9]
https://benhvien16a.com/index4?act=tinchitiet&id=2084
[10]
http://www.sinuswellbeing.com/blog/2014/7/4/why-are-doctors-still-using-2d-imaging-ct-an-mri-scans-when-3d-is-readily-available
January 2021
|