Lâu lắm rồi,
tôi không đi tản bộ trên con đường nhỏ 17 miles nối liền thủ phủ St.
Paul với thành phố Stillwater, nơi khởi nguồn tiểu bang Minnesota. Con
đường này nằm ngay trong Demontreville Trail gần nhà. Vào ngày thường
tuy không tấp nập cho lắm, nhưng lúc nào cũng có vài người chạy bộ, đi
xe đạp, trược patanh hay đi quan sát chim chóc với chiếc ống dòm treo
lủng lẳng ngang cố. Mà sao hôm nay ở đây “vắng tanh như chùa Bà Đanh
zẫy nà!?
Cảnh vật
chung quanh vẫn không có gì thay đổi. Vẫn điều hòa với bốn mùa luân
chuyển! Những cành cây thông, cedar, sồi, maple, birch và aspen quyện
vào nhau tạo thành mái hiên khổng lồ đủ màu che rợp bóng mát cho khách
bộ hành. Vài đóa hoa petunia và aster vẫn còn chum chúm nụ. Không biết
chừng nào mới nở hoa đây? Có trễ quá hay không vì cái lạnh giữa thu đã
bắt đầu trở về? Làn gió mơn man, bảng lảng. Tôi bước chân đi theo bóng
nắng ngã dài. Đối với tôi, màu nắng bao giờ cũng đẹp, cũng hiền hòa,
âu yếm, thân thương. Tôi hít thở nhẹ nhàng không khí ban mai để từng
ngụm nhỏ len lén vào phổi, xuyên qua tứ chi, xoa dịu vài cảm nghĩ bâng
quơ đong đầy hoài niệm đang lẩn quẩn trong đầu.
Bước chân đi ngỡ
ngàng trên con đường mòn lác đác đó đây vài chiếc lá khô rơi. Màu đỏ
cam xanh hòa quyện với màu trời cho tôi một cảm giác vấn vương với
buồn vui lưu luyến. Không có tiếng chim víu von; thiếu dấu chân nai
“ngơ ngác” qua lại. Buổi sáng hình như còn đang chìm đắm trong giấc mơ
dịu dàng!? Xa xa, tiếng chuông từ Tu viện vọng lại âm điệu thánh thót
ngân vang…vang… Thời gian và không gian hình như chưa muốn hòa quyện,
đổi trao nhau lời tâm sự!? Sự yên lặng trầm tư này đâu phải lỗi của
mùa thu! Cũng đâu phải lỗi của những chiếc lá vàng xác xơ rơi đượm sầu
thảm cỏ! Tại con người thích được buồn và thiên nhiên thì muốn được
lặng yên theo dòng biến đổi chớ bộ!?
Đi được một
đổi lâu, tôi đến một ngọn đồi cao. Nhìn xuống thung lủng nghiêng
nghiêng vài vạt nắng trong mây gió la đà. Rồi sau đó ngồi bệt xuống
trên một thảm cỏ còn ướt sương mai. Nhìn xuống con đường tôi vừa mới
đi qua. Hàng cây giờ rõ nét hơn với những cây nhỏ gối đầu lên cây lớn
hay lặng lẽ lách luồn qua những bụi rậm như muốn tìm một sự âu yếm,
vuốt ve, triều mến! Có vài cây con cố vươn lên trên khoảng đất trống
khô như muốn lớn nhanh trước khi mùa đông đến! Vài chú vịt thung dung
bơi lội trong chiếc hồ nhỏ lác đác với vài cụm hoa súng màu trắng. Nếu
là lần đầu tiên đến đây và không bước chân đến ngọn đồi này, có lẽ tôi
sẽ không biết sự hiện diện của chiếc hồ nhỏ xinh xắn này!?
Mà nghĩ
cũng lạ và “thú vị” thiệt! Cũng cùng một khung cảnh, cũng một cái nhìn;
mà tùy theo góc độ, không gian và vị trí của”người quan sát- tôi”,
hình ảnh và chi tiết của sự vật có phần đổi khác. Điều này có tính phổ
cập ở nhiều lãnh vực mặc dù dưới những dạng thức và ở những môi trường
khác nhau. Thiên nhiên có những “bí mật” mà con người phải tận dụng
đúng điều kiện, góc độ nhìn và vị trí thích hợp mới có thể khám phá
được! Mối quan hệ tương tác này cũng chẳng có gì mới lạ đối với những
dữ kiện khoa học- nơi ý tưởng là một chuyện mà thực hiện thành công
được hay không còn tùy thuộc vào công nghệ hiện có! Riêng về kỹ thuật
chẩn đoán trong y khoa như ảnh hóa cộng hưởng từ (magnetic resonance
imaging MRI), chụp cắt lớp vi tính (computed tomography CT ) hay chụp
X quang tuyến vú với kỹ thuật số (digital mammography), các nhà nghiên
cứu phải chờ đến sự phát triển của công nghệ máy tính điện tử vào thập
niên 80’s để “có thể nhìn được rõ hơn ở những góc độ khác nhau” trong
công tác tái tạo hình ảnh cắt lát vào việc tầm soát và chẩn đoán hữu
hiệu hơn về những dữ kiện bệnh lý. Đây cũng là đề tài liên quan đến hệ
thống chụp cắt lớp tuyến vú kỹ thuật số (digital breast tomosynthesis)
mà chúng tôi sắp trình bày dưới đây.
1. Tình trạng hiện tại
của hệ thống chụp X-quang tuyến vú kỹ thuật số tiêu chuẩn
Hệ thống
chụp hình quang tuyến X kỹ thuật số (digital radiography hay DR) dần
dần thay thế film/screen truyền thống dùng trong công tác chụp quang
tuyến vú như nhũ ảnh kỹ thuật số tiêu chuẩn (full field digital
mammography) và chụp cắt lớp tuyến vú kỹ thuật số (digital breast
tomosynthesis). Vì hiệu quả phân tán ánh sáng ít và vùng tuyến tính
(dynamic range) rộng hơn, hình của hệ DR sắc nét hơn với độ phân giải
cao hơn. Thêm vào đó, thủ tục chẩn đoán ngắn gọn hơn, sự kiện ít phải
chụp lại để lấy đúng lượng X-quang thích hợp nên thường không phải gọi
bệnh nhân trở lại tái khám, thời gian lấy hình nhanh hơn và tổn phí
thấp hơn; tất cả đã góp phần trong việc đưa DR trở thành công nghệ
thuận lợi cho cả bác sĩ, y tá, bệnh viện và nhất là lợi ích liên quan
đến sức khỏe của bệnh nhân. Hiện tại, một số lớn các bệnh viện trên
thế giới dùng hệ thống DR tiêu chuẩn [1] trong việc sàng lọc sơ bộ và
chẩn đoán ung thư vú của phái nữ, một chứng bệnh đã gây con số tử vong
cao, nhất là những người ở cái tuổi trên 50. Nhiều bệnh viện trên thế
giới đã và đang sử dụng hệ DR này, kể cả những bệnh viện lớn ở Mỹ như
Massachusetts General Hospital, Yale University School of Medicine,
Mayo Clinics, John Hopkins Medicine, Mt. Sinai Hospital in NY,
Hospital of the University of Pennsylvania, và University of
Pittsburgh Medical Center.
Theo một số
tài liệu khoa học: (i) chụp hình quang tuyến X hàng năm giảm thiểu hệ
số tử vong của những người bị bệnh ung thư vú xuống 15-50% [2-4]; (ii)
Khoảng 20% trường hợp bệnh ung thư vú bị bỏ sót trong lúc chẩn đoán
với hệ thống chụp hình X quang tuyến vú kỹ thuật số tiêu chuẩn; và
(iii) khoảng 10% thuộc về trường hợp phải gọi bênh nhân trở lại
(recalls) vì kết quả lần đầu không đủ để chẩn đoán chính xác; điều này
tạo nên sự lo lắng ảnh hưởng tinh thần và gia tăng phí tổn tài chánh
về phía bệnh nhân.
Nhân tố
chính đưa đến sự giới hạn hiệu năng của hệ thống chụp hình X quang
tuyến vú kỹ thuật số tiêu chuẩn là sự chồng chéo lên nhau của mô tuyến
vú khi những cơ cấu của bầu vú “projected” trên mặt phẳng của không
gian hai chiều. Sự xếp chồng này có thể che khuất những thương tổn bất
bình thường làm sự phát hiện u vú, bứu nhỏ ở vú hay cụm nhỏ vôi hóa
với hình dạng không đều (microcalcifications) trở nên khó khăn hơn.
2. Thế nào là chụp cắt
lớp tuyến vú kỹ thuật số hay digital breast tomosynthesis?
Trong vòng
15 năm gần đây, hệ breast tomosynthesis (nhũ ảnh tomosynthesis hay đôi
khi gọi tắt là tomosynthesis) đã phát triển nhanh nhờ những tiến bộ
khả quan của công nghệ máy tính và có triển vọng giúp bác sĩ X quang
tầm soát, sàng lọc, chẩn đoán và phòng ngừa ung thư vú của phái nữ một
cách hiệu quả hơn hệ chụp X-quang tuyến vú kỹ thuật số (hay nhũ ảnh kỹ
thuật số) tiêu chuẩn. Xin lưu ý ở đây, đôi khi chùng tôi dùng cụm từ
“2D /2D imaging/2D mammography” để ám chỉ chụp nhũ ảnh kỹ thuật số
(digital mammography) tiêu chuẩn; trong khi đó từ “3D/3D imaging/3D
mammography” liên quan đến chụp cắt lớp tuyến vú kỹ thuất số (tomosynthesis
, digital breast tomosynthesis hay DBT).Trong lúc chụp X quang tuyến
vú với 3D tomosynthesis, một bên vú (mỗi vú một lần) của bệnh nhân
được ép chặt giữa mặt phẳng của bộ cảm biến X quang DR và một tấm
plastic phẳng từ từ đè lên trên. Mục đích chính của sự đè nén dạng cơ
khí này lên vú là để giữ độ dày của vú được đồng đều và để tia X quang
xuyên qua tuyến vú được dễ dàng hơn. Kết quả là hình X-quang chụp sẽ
rõ nét về mô tuyến vú, tránh nhòe ảnh khi chụp cũng như giảm liều bức
xạ. Nhân viên y tế sẽ hướng dẫn bệnh nhân đặt cánh tay, đầu, thế đứng
và chiều cao cho thoải mái. Một khi tư thế của một bên vú nằm ở vị trí
mong muốn rồi, ống quang tuyến X sẽ bắt đầu quay chung quanh bầu vú
theo một vòng cung 15-25 độ; khoảng 10-15 hình được chụp với lượng X-quang
thấp trong vòng 5-7 giây. Tổng số lượng quang tuyến X trong những lần
chụp này tương đương với lượng quang tuyến chụp một lần trong hệ 2D
tiêu chuẩn để tránh những ảnh hưởng có thể gây tai hại đến sức khỏe
của bệnh nhân (Hình 1a). Dùng máy tính năng xuất cao với thuật toán để
tái tạo nhiều lát (slices) mô tuyến vú có chiếu dày khoảng 1mm cho cả
hai vú. Hình ảnh trắng đen của vú được hiển thị trên màn hình máy tính.
Thay vì đọc kết quả và phân tích bầu vú trên một mặt phẳng, bác sĩ X-quang
có thể tầm soát hay chẩn đoán bệnh lý mô tuyến vú có chiều dày 1mm
từng lát một. Chi tiết về khối bướu nhỏ ở vú có thể nhìn thấy dễ dàng,
vì không còn bị che khuất bởi mô tuyến vú và lớp mỡ nằm ở phía trên và
phía dưới của mỗi lát. Những lát hình này có thể phân chia vật thể ở
những độ cao khác nhau trong bầu vú khi tạo hình 3D của X quang tuyến
vú [Hình 1b].

Hình 1. Nhũ ảnh
tomosynthesis: (a) nguyên tắc vận hành cơ bản; và (b) hình chụp X
quang tuyến vú (mammogram) được tái tạo thành nhiều lát (slices) có
chiều dày 1 mm để bác sĩ X quang quan sát từng lát một và chẩn đoán (Hologic).
Hình 2 cắt
nghĩa hiện tượng hình lát một cách rành mạch và dễ hiểu hơn. Vi vôi
hóa, mô tuyến vú và u vú xếp chồng lên nhau bao bọc bởi lớp mỡ chung
quanh trong hình quang tuyến vú hai chiều (Hình 2a). Tuy nhiên khi cắt
chia bầu vú thành nhiều lát với độ dày 1mm, những cấu trúc trên có thể
nhìn thấy rõ rệt, thuận lợi cho việc tầm soát và chẩn đoán lâm sàng
của bác sĩ X quang (hình 2b). Thường thì vôi hóa thuộc về lành tính,
tuy nhiên hình thái không đồng đều và độ phân phối của cụm vi vôi hóa
(microcalcifications) cũng có thể xác nhận triệu chứng ung thư vú.


Hình 2. Nguyên lý
vận hành của nhũ ảnh tomosynthesis (Tài liệu của Fujifilm’s Annulet
Innovality và Bệnh viện Hoàng Long): (a) 2D mammography tiêu chuẩn vói
X-quang chụp trên toàn một bên vú; (b) chụp cắt lớp tuyến vú kỹ thuật
số; và (c) bác sĩ X quang có thể nhìn thấy rõ ràng các thành phần của
cấu trúc bầu vú khi nhìn từng lát một (hình bên phải), hình 2D bên
trái dùng để tham khảo.
3. Cấu trúc cơ bản của
digital breast tomosynthesis (hay nhũ ành 3D mammography)
3D
mammography dựa trên cấu trúc căn bản của 2D mammography. Cả hai 2D
mammography và 3D tomosynthesis đều dựa vào một trong hai cấu trúc (Hình
3a): (i) amorphous silicon photodiode/transistor (pixel level) và chất
phát sáng (scintillator) cesium iodine hợp với tạp chất thallium (CsI:Tl)
hay chất phốtpho gadolinium oxide sulfide với tạp chất terbium (GdOS:Tb)
(Hình 3c); và (ii) amorphous silicon transistors /chất quang dẫn
selenium (Hình 3d). Tiến độ của hệ chụp hình X quang vú từ analog
film/screen qua CR đến DR được trình bày ở Hình 3b.

Hình 3. Tiến độ của
công nghệ chụp X-quang tuyến vú: (a) Tài liệu dùng trong những bộ cảm
biến quang X (CR & DR) qua các thập niên; riêng hệ CR (computed
radiography) gồm có công đoạn chụp hình quang tuyến X qua quang kích
thích phốt pho (photostimulable phosphor) BaFX: Eu2+ (X=Br,Cl,I) và
công đoạn đọc điện tích dùng tia laze (laser); (b) tiến trình phát
triễn từ film/screen (analog), qua CR đến CR; (c) bộ cảm biến DR với
phốtpho/quang điốt/tranzitor (indirect conversion), ở đây phốtpho là
chất phát sáng cesium iodine thêm với tạp chất thallium (CsI:Tl) hay
gadolinium oxysulfide thêm với tạp chất terbium (GdOS:Tb) (indirect
conversion) và (d) amorphous silicon transistors /chất quang dẫn
selenium dùng để biến X quang thành điện tích (direct conversion) (Hologic
& Tran).
3.1 Lợi điểm của 3D
imaging so với 2D imaging trong việc chẩn đoán bệnh lý
Chúng tôi
chọn Selenia Dimensions (Hologic) (Hình 4) để khảo sát hệ thống nhũ
ảnh tomosynthesis trong những áp dụng lâm sàng. Hệ DR này có cấu trúc
cơ bản gồm có amorphous silicon transistors /chất quang dẫn selenium (Hình
3d). Đây cũng là cấu trúc chúng tôi đề nghị và triển khai vào năm 1987
(US patents 5,235,195 , 5,254,480, 5,973,311). Nói chung, nhũ ảnh
tomosynthesis có thể dùng giống như môt hệ tổng hợp của 2D mammography
tiêu chuẩn (Full Field Digital Mammography) và 3D mammography trong
công tác sàng lọc sơ bộ và chẩn đoán ở bệnh viện; thêm vào với một số
lợi điểm như gia tăng độ cảm biến và giảm số lần gọi bệnh nhân trở lại
để tái khám. Nên nhớ là mỗi lần gọi tái khám chẳng những mất thì giờ,
tốn kém mà quan trọng nhất là còn ảnh hưởng tâm lý dẫn đến sự lo sợ và
bất an về phía bệnh nhân.

Hình 4. Selenia
Dimensions, một sản phẩm nhũ ảnh tomosynthessis rất phổ biến hiện nay
trên thị trường do hãng Hologic chế tạo. Bộ cảm biến X quang có cấu
trúc amorphous silicon transistors /chất quang dẫn selenium (Tài liệu
của Hologic).
3.2 Digital breast
tomosynthesis tăng hiệu xuất tầm soát ung thư vú
-So với 2D
mammography tiêu chuẩn, sự kết nối 3D tomosynthesis với 2D mammography
tiêu chuẩn giúp bác sĩ X quang khám phá tế bào ung thư 40% nhiều hơn
và đồng thời giảm số lượng dương tính giả (false positives) [5].
- Nhóm
STORM bên Ý khảo sát 7,292 phụ nữ dùng tomosynthesis. Kết quả cho thấy
tỉ số tầm soát 8.1 cancers/1,000 screens với sự kết nối 2D và nhũ ảnh
tomosynthesis và 5.3 cancers/1,000 screens với 2D không thôi; một sự
gia tăng tới 53% [6].
- Nhũ ảnh
tomosynthesis đã gia tăng tỉ số tầm suất ung thư vú với 5% cho tất cả
các loại ung thư và 53% đối với những loại ung thư đang trong thời kỳ
đang bành trướng [7].
3.3 Nhũ ảnh
tomosynthesis giảm số lần gọi bệnh nhân trở lại
Số lần gọi
bênh nhân trở lại bệnh viện để tái khám giảm 30% từ 12% xuống còn 8.4%
, dùng hệ nhũ ảnh tomosynthesis của Hologic. Số người tham gia trong
sự kiểm tra này: 13,158 phụ nữ, trong số đó 6,100 người với
tomosynthesis [8].
3.4 Vài thí dụ về
những hình X-quang tuyến với hệ thống chụp cắt lớp tuyến vú kỹ thuật
số (breast tomosynthesis)
Vì bầu vú
gồm có những mô tuyến dày bao bọc chung quanh bởi những lớp mỡ, khi
chụp X quang vú tiêu chuẩn, chúng ta sẽ thấy hình ảnh trông giống như
những lớp sương mù. Sự phủ chồng của tuyến vú trong hình làm cho việc
quan sát những cụm của điểm nhỏ vôi hóa không đều (microcalcifications)
và việc sàng lọc những dấu hiệu sớm về ung thư vú trở nên khó khăn.

Hình 5. Nhũ ảnh
tomosynthesis có thể giảm tỉ số âm tính giả và dương tính giả [8].
Hình 5a: Thí dụ về
âm tính giả trong hình chụp X quang tuyến vú được giải quyết với
tomosynthesis.
Hình X-quang
cho biết người bệnh có hình X quang tuyến thuộc loại bình thường
BI-RADS1 [9] (hình bên trái). Vài tuần sau, bà ta trở lại bệnh viện vì
sự xuất hiện của một khối bướu nhỏ ở vú. Kết quả siêu âm và sinh thiết
(biopsy) xác định đây là ung thư. Hình X-quang chụp với tomosynthesis
cho thấy rõ ràng một vật thể nhỏ gần đầu nhũ hoa (hình bên phải) [10].
Hình 5b:
Thí dụ về dương tính giả trong hình chụp X quang tuyến vú được giải
quyết với tomosynthesis.
Có sự nghi
ngờ là vật thể nằm trong vòng tròn trong hình có thể liên quan đến tế
bào ung thư. Kết quả sinh thiết cho biết đây không phải là ung thư (lành
tính). Hình X-quang tuyến vú với tomosynthesis xác định điều này. Cũng
trong hình này, chúng ta cũng tìm thấy vài skin calcifications trên
nhũ hoa.
Hình 5c &
5d: Nhũ ảnh tomosynthesis cho thấy bầu vú với bề mặt trơn tru, chứng
tỏ không có tế bào ung thư, như đã xác nhận bởi kết quả sinh thiết.
4. Kết từ
Theo thong
tin từ Hội Y Khoa Mỹ (the American Medical Association), hiện tại có
khoảng 3.1 triệu phụ nữ còn đang mắc bệnh ung thư vú tại Mỹ. Sàng lọc
bệnh nhân với nhũ ảnh tomosynthesis cho hình ảnh rõ nét và nhiều dữ
kiện lâm sàng thuận lợi cho bác sĩ X-quang trong công tác tầm soát và
chẩn đoán, giúp phát hiện triệu chứng ung thư nhanh, chính xác và vì
thế chửa trị hữu hiệu hơn. Kết quả là con số tử vong đã giảm khoảng
30% và tỉ số phát hiện triệu chứng ung thư tăng lên tới 25% [11] .
Với những
tiến bộ và thánh tích đáng kể trên, nhũ ảnh tomosynthesis đã và đang
được xử dùng càng ngày càng nhiều ở một số lớn bệnh viên trên thế giới
trong công tác chửa trị và phòng ngừa bênh ung thư vú của hàng triệu
phụ nữ mỗi năm.
Trong bài
viết tới, chúng tôi sẽ trình bày một cấu trúc mới của bộ cảm biến X-quang:
bộ cảm biến tích hợp. Về phương diện chế tác và chức năng, chúng tôi
dùng đơn tinh thể silic để chế tạo linh kiện điện tử như quang điốt,
tranzito và mạch điện với nhiều lợi điểm mà đa tinh thể hay vô tinh
thể silic không thể có được.
5. Tài liệu tham khảo
1.
http://www.erct.com/2-ThoVan/TTriNang/Digital%20Mammography.htm
2. Smith
RA, Duffy SW, Gabe R et al. Radiol Clin N Am 42 (2004) 793 – 806
3. Hendrick
RE, Smith RA, Rutledge JH, Smart CR.
Monogr Natl
Cancer Inst 1997;22:87-92.
4. Tabar L,
Vitak B, Tony HH, Yen MF, Duffy SW, Smith RA. Cancer 2001;91:1724-31
5. Per
Skaane et al. Radiological Society of North America RSNA, 2013.
6. The
Lancet Oncology, April 2013.
7. Stephen
L. Rose, June 2013, American Journal of Roentgenology, June 2013.
8. Brian
Hass, Radiology, July 2013
9. BI- RADS
(Breast Imaging Reporting and Data System – BI-RADS) được xếp hạng như
sau: BI-RADS 1 (bình thường): Vú nhiều mô mỡ, mô sợi và mô tuyến <
25%, BI-RADS 2: Vú có mô sợi và mô tuyến rải rác, mô sợi và mô tuyến
25- 50%, BI-RADS 3: Vú có đậm độ không đồng nhất, mô sợi và mô tuyến
51 – 75%, BI-RADS 4: Vú có đậm độ cao cực kỳ, mô sợi và mô tuyến >
75%. (Vinmec Hospital).
10. Tài
liệu từ Hologic.
11. Tài
liệu từ Stanford Health Care.
November
2020
|