T́m
hiểu về
Chủ nghĩa Tân
tự do

Phạm Vũ
Thịnh
Chủ nghĩa
Neoliberalism
- Tân tự do
là một học thuyết kinh tế chính trị nhấn mạnh tầm quan trọng của
thị trường tự do, băi bỏ
quy chế
và hạn chế can thiệp của chính
phủ vào nền kinh tế. Chủ nghĩa
Tân tự do hồi sinh những ư
tưởng của thế kỷ 19 gắn liền với chủ nghĩa tư bản
"laissez-faire - cho tha hồ tự do",
kết quả là đă trở thành hệ tư tưởng kinh tế thống trị từ cuối
thế kỷ 20.
Chủ nghĩa
Tân tự do gắn liền với các chính sách kinh tế do Margaret
Thatcher ở Vương quốc Anh và Ronald Reagan ở Hoa Kỳ đưa ra.
Những chính sách này bao gồm tư hữu hóa, băi bỏ
quy chế
và cắt giảm thuế.
Chúng cũng dẫn đến việc giảm quy mô và phạm vi của các chính
sách phúc lợi xă hội.
Chủ nghĩa
Tân tự do đă bị chỉ trích v́ tác động xấu về bất b́nh đẳng,
an sinh
xă hội và môi trường sống.
Và cũng bị đổ lỗi gây ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Tuy nhiên,
những người ủng hộ
chủ nghĩa này
lập luận rằng nó đă đưa đến
tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng cho nhiều người.
Dưới đây
là một số đặc điểm chính của chủ nghĩa Tân tự do:
• Thị
trường tự do: Chủ nghĩa Tân tự do tin rằng thị trường tự do
là cách hiệu quả nhất để
phân bố
tài nguyên và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
• Băi
bỏ quy chế:
Những người theo chủ nghĩa Tân tự do lập luận rằng các
quy chế
ḱm hăm tăng trưởng và sáng kiến
kinh tế. Họ ủng hộ băi bỏ quy chế
trong các lĩnh vực như tài chính, lao động và môi trường.
•
Hạn chế
can thiệp của chính phủ:
Những người theo chủ nghĩa Tân tự do tin rằng chính phủ nên đóng
một vai tṛ hạn chế trong nền kinh tế. Họ ủng hộ
tư hữu
hóa các doanh nghiệp nhà nước và cắt giảm chi tiêu của chính
phủ.
• Toàn
cầu hóa: Những người theo chủ nghĩa Tân tự do ủng hộ toàn
cầu hóa, điều mà họ tin rằng sẽ dẫn đến tăng trưởng
mậu dịch
và kinh tế.
• Trách
nhiệm cá nhân: Những người theo chủ nghĩa Tân tự do tin rằng
các cá nhân chịu trách nhiệm về sự thịnh vượng kinh tế của
chính ḿnh.
Họ lập luận rằng chính phủ không nên cung cấp các chương tŕnh
phúc lợi xă hội không khuyến khích làm việc và chịu trách nhiệm
cá nhân.
Chủ nghĩa
Tân tự do đă có tác động
lớn lên
nền kinh tế thế giới trong hơn 40 năm nay, đưa
đến tăng trưởng mậu dịch và
kinh tế, nhưng đồng thời cũng dẫn đến gia tăng bất b́nh đẳng và
các vấn đề xă hội. Sau đây là một số ưu và khuyết điểm của chủ
nghĩa Tân tự do:
Ưu điểm:
• Tăng
trưởng kinh tế
• Gia tăng
mậu dịch
thương mại
• Tăng
cường sáng kiến
kinh doanh
• Giảm
quy chế từ
chính phủ
• Tăng tự
do cá nhân
Khuyết
điểm:
• Gia tăng
bất b́nh đẳng
• Giảm
phúc lợi xă hội
•
Gây thiệt hại về môi trường
• Gây bất
ổn tài chính
• Gia tăng
quyền lực của các doanh nghiệp lớn
Các chính sách thực tế của chủ nghĩa Tân tự do
Nỗ lực
"tăng trưởng kinh tế" (thực chất là tăng tỷ lệ lợi nhuận)
của chủ nghĩa Tân tự do đă hiển lộ sự đồng dạng của các chính
sách kinh tế trên toàn thế giới, bao gồm:
·
làm lấy lệ hoặc bỏ mặc việc giải quyết các nguy cơ toàn cầu như
biến đổi khí hậu, hoặc các vấn đề xă hội trước mắt như bạo lực
gia đ́nh;
·
làm suy yếu và cản trở các nghiệp đoàn lao động;
·
cắt giảm mức sống của người lao động, trực tiếp thông qua việc
giảm tiền lương thực chất, hoặc gián tiếp thông qua việc cắt
giảm các phụ cấp xă hội (y tế, giáo dục, giao thông, ...);
·
tăng thêm giờ làm việc khiến công nhân ngày càng bị bóc lột sức
lao động;
·
cắt giảm chi tiêu của chính phủ, nhất là cho người nghèo;
·
kiểm soát gắt gao những người nhận phúc lợi xă hội từ chính phủ;
·
thắt chặt điều kiện để có thể nhận được các khoản trợ cấp của
chính phủ, kể cả tiền cấp dưỡng người già, người tàn tật;
·
cắt giảm các loại thuế công ty;
·
trợ cấp cho các hoạt động kinh doanh lớn tới mức hàng chục tỷ đô
la;
·
chi hàng tỷ đô la vào cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp lớn
(nhưng không v́ lợi ích của người lao động);
·
nới lỏng kiểm soát để các công ty lớn dễ dàng tránh thuế doanh
nghiệp;
·
tư hữu hóa các dịch vụ lâu nay vốn là của chính phủ, như giao
thông, nhà tù,...
Tác động lên bất b́nh đẳng
Chủ nghĩa
Tân tự do bị chỉ trích về tác động xấu làm gia tăng bất b́nh
đẳng. Hệ tư tưởng này chủ trương thị trường tự do hoàn toàn
và cực lực hạn chế sự can thiệp của chính phủ, điều này đă dẫn
đến sự tập trung của cải và quyền lực vào tay một số ít người,
trong khi tầng lớp lao động và người nghèo phải chứng kiến thu
nhập của họ bị đ́nh trệ hoặc suy giảm.
Ngày càng
có nhiều bằng cớ minh chứng mối liên hệ giữa chủ nghĩa Tân tự
do và bất b́nh đẳng. Ví dụ, một nghiên cứu của
International Monetary Fund
- Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho thấy các quốc gia áp dụng nhiều
chính sách Tân tự do đă trải qua mức độ bất b́nh đẳng thu nhập
cao hơn. Một nghiên cứu khác của
World Bank
- Ngân hàng Thế giới cho thấy khoảng cách giàu nghèo đă
tăng cao ở hầu hết các quốc gia kể từ thập niên 1980,
trùng khớp với thời kỳ trỗi dậy của chủ nghĩa Tân tự do.
Có một số
cách thức mà chủ nghĩa Tân tự do có thể dẫn đến bất b́nh đẳng.
Ví dụ, việc băi bỏ quy chế vào thị trường tài chính đă
cho phép đầu cơ và liều lĩnh chấp nhận rủi ro lớn hơn, dẫn đến
các cuộc khủng hoảng tài chính gây tổn hại không tương
xứng cho người nghèo và tầng lớp lao động. Việc tư nhân hóa
các dịch vụ công cộng cũng dẫn đến giá cả cao hơn và phẩm
chất dịch vụ thấp hơn cho nhiều người. Và việc cắt giảm chi
tiêu của chính phủ cho các chương tŕnh phúc lợi xă hội đă
khiến nhiều người không có phương tiện để đáp ứng các nhu cầu cơ
bản trong đời sống.
Bằng chứng
thực tế cho thấy rằng ư thức hệ Tân tự do đă đóng một vai tṛ
quan trọng trong việc gia tăng khoảng cách giàu nghèo ở nhiều
quốc gia. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về cách chủ nghĩa Tân
tự do đă dẫn đến sự gia tăng bất b́nh đẳng:
• Sự
suy giảm của các nghiệp đoàn khiến người lao động càng khó
thương lượng để được trả lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt
hơn.
• Sự
xói ṃn của nhà nước phúc lợi đă khiến nhiều người không có
phương tiện để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ.
• Nỗ lực
tài chính hóa mọi thứ đă dẫn đến sự gia tăng tập trung của
cải lợi tức vào tay một số ít người.
• Quá
tŕnh toàn cầu hóa về sản xuất đă dẫn đến t́nh trạng mất việc
làm trong lĩnh vực chế tạo ở các nước phát triển, điều này
ảnh hưởng nghiêm trọng bất tương xứng đến những người lao động
trong các ngành không đ̣i hỏi tay nghề cao.
Trên đây
chỉ là một số cách thức mà chủ nghĩa Tân tự do đă góp phần làm
gia tăng bất b́nh đẳng. Hệ tư tưởng này đă có tác động đáng kể
đến sự phân bố của cải và quyền lực ở nhiều quốc gia, và
sẽ tiếp tục tác động như thế trong nhiều năm tới.
Tương quan giữa chủ nghĩa Tân tự do và sự mất ḷng tin vào hệ
thống
Có một
số lư do tại sao chủ nghĩa Tân tự do dẫn đến sự mất ḷng tin vào
hệ thống. Đầu tiên, chủ nghĩa Tân tự do có liên quan đến một
số hậu quả kinh tế tiêu cực, chẳng hạn bất b́nh đẳng gia
tăng, tầng lớp trung lưu suy giảm và mất việc làm trong lĩnh vực
chế tạo. Những hậu quả này đă khiến nhiều người tin rằng
hệ thống đă bị thao túng để có lợi cho những người giàu có
và quyền lực.
Thứ hai,
chủ nghĩa Tân tự do gắn liền với sự suy giảm niềm tin của
công chúng vào các thiết chế chính trị kinh tế. Ví dụ, một
nghiên cứu của
Pew Research Center
- Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy niềm tin vào chính
phủ Mỹ đă giảm sút đáng kể từ thập niên 1950. Sự suy giảm niềm
tin này có thể là do một số yếu tố, kể cả nhận thức rằng
chính phủ không c̣n đáp ứng nhu cầu của người dân thường, và
chính phủ tham nhũng.
Thứ ba,
chủ nghĩa Tân tự do gắn liền với sự gia tăng phân cực chính
trị. Sự phân cực này khiến mọi người khó t́m thấy điểm chung
mà cùng nhau giải quyết vấn đề. Nó cũng dẫn đến sự suy giảm tinh
thần ḥa nhă, và gia tăng bế tắc chính trị.
Mối tương
quan giữa chủ nghĩa Tân tự do và sự mất niềm tin vào hệ thống là
một vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy chủ nghĩa
Tân tự do là một yếu tố quan trọng làm suy giảm niềm tin vào hệ
thống ở Mỹ. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về cách chủ nghĩa
Tân tự do đă dẫn đến sự mất ḷng tin vào hệ thống ở Mỹ:
• Cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 phần lớn là do việc băi bỏ
quy chế đối với ngành tài chính, vốn là một nguyên lư chính của
chủ nghĩa Tân tự do. Cuộc khủng hoảng này dẫn đến sự mất niềm
tin vào khả năng của chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế
và bảo vệ người tiêu dùng.
• Sự
gia tăng bất b́nh đẳng thu nhập là nguyên nhân chính gây mất
ḷng tin vào hệ thống. Khoảng cách giàu nghèo đă gia tăng đáng
kể trong những thập niên gần đây và nhiều người tin rằng hệ
thống này đă bị thao túng gian lận để có lợi cho những người
giàu có.
• Sự
suy giảm của nhà nước phúc lợi đă dẫn đến sự mất niềm tin
vào khả năng của chính phủ trong việc cung cấp các nhu cầu của
người dân. Nhiều người cho rằng chính phủ đă từ bỏ trách nhiệm
giúp đỡ giới người nghèo và người bị thiệt tḥi.
Tác hại của Chủ nghĩa tư bản Tân tự do
Từ những năm 1970, các
chính trị gia bảo thủ cùng giới tư bản lớn đă t́m mọi cách tuyên
truyền để giới hạn quy mô của chính phủ liên bang Mỹ. Họ chủ
trương như Robert LeFevre mô tả “chính phủ là một căn bệnh
đội lốt thuốc chữa bệnh” với sự cổ vơ của những tỷ phú
như Charles Koch cùng anh là David, chủ tŕ một tập đoàn bao
trùm từ dầu mỏ đến chăn nuôi gia súc, sản xuất giấy,... đă thành
lập một mạng lưới các tổ chức tư vấn, các chương tŕnh học
thuật, các nhà vận động hành lang và các ứng cử viên chính trị
cho mục tiêu này. Rush Limbaugh nêu quan điểm của họ rằng chủ
trương bảo vệ môi trường chỉ là “một phương cách để hù dọa
cho mọi người hoảng sợ mà từ bỏ quyền tự do và tài sản của cá
nhân, đồng thời giúp bọn cánh tả giành được nhiều quyền lực hơn
và kiểm soát cuộc sống của các cá nhân”; c̣n các trường học
chỉ là băi thải phung phí tiền thuế của dân, “Ngày nay, chúng
ta chi cho mỗi lớp học một lượng tiền đủ để cung cấp xe
limousine có tài xế lái cho cả giáo viên lẫn học sinh.”
Chiến dịch bôi đen h́nh
ảnh của chính phủ liên bang như thế đă thành công thật ngoạn
mục. Mặc dù thực tế, ngân sách của chính phủ Mỹ đă thúc tiến
tăng trưởng tài sản quư giá nhất của chủ nghĩa tư bản Mỹ là chất
bán dẫn, vắc-xin, năng lượng hạch nhân, truyền thông, hàng không
vũ trụ và Internet, chiến dịch đó của phe bảo thủ đă thành công
trong việc tạo h́nh ảnh chính phủ là thứ ǵ xấu xa. Các
nghiên cứu về thái độ của công chúng cho thấy nhiều người Mỹ bày
tỏ thái độ ác cảm thậm chí thù địch đối với chính phủ liên bang,
ngay cả khi họ hài ḷng với những dịch vụ thực tế mà họ nhận
được. Một cuộc khảo sát năm 2015 của Pew cho biết đại đa số
người ủng hộ Đảng Dân chủ và cả Đảng Cộng ḥa cho rằng chính phủ
đă làm tốt công việc quản lư thiên tai (lần lượt là 82 và 78%)
và thiết lập các tiêu chuẩn công bằng, an toàn cho nơi làm việc
(lần lượt là 79 và 77%). Và có khoảng một nửa số người mỗi bên
cho biết chính phủ liên bang đă làm tốt việc bảo tŕ đường sá,
cầu cống và các cơ sở hạ tầng khác cũng như đảm bảo khả năng
tiếp cận giáo dục phẩm chất cao.
Đáng chú ư nhất là người
dân Mỹ đă khinh thị chính những khoản trợ cấp và lợi ích mà họ
nương tựa vào. Trong một nghiên cứu năm 2008, Suzanne Mettler,
một nhà khoa học chính trị của Đại học Cornell, đă phỏng vấn
nhiều người Mỹ đă “từng sử dụng một chương tŕnh xă hội
của chính phủ” như An sinh xă hội, Medicaid hay khấu trừ
lăi suất mua nhà. Hơn một nửa—57 phần trăm—cho biết là họ chưa
bao giờ sử dụng một chương tŕnh nào, trong khi trên thực tế,
92 phần trăm trong số họ đă sử dụng các chương tŕnh xă hội của
chính phủ. Trung b́nh, mỗi người Mỹ đăng kư vào năm
chương tŕnh xă hội liên bang, như Medicare và An sinh xă
hội,...
Thay đổi chính sách ở Mỹ gần đây nhất
Tổng thống
Joe Biden vào giữa tháng 07-2023 đă mở rộng cuộc chiến
chống phí rác (loại phí vặt linh tinh người dùng phải trả
thêm cho các dịch vụ) trong thị trường nhà cho thuê, tuyên
bố trấn áp việc các công ty lớn cấu kết ấn định giá cả
trong thị trường thực phẩm và nông sản, đồng thời công bố dự
thảo hướng dẫn về việc sáp nhập các công ty như một phần
trong nỗ lực không ngừng nhằm hỗ trợ người tiêu dùng Hoa Kỳ. Các
biện pháp mới được đưa ra nhằm tấn công vào các hành vi phản
cạnh tranh, trước mắt cụ thể nhắm đến phí đóng gói thịt, vận
chuyển đường biển và các loại phí rác đánh vào người tiêu dùng.
Tổng thống
Joe Biden coi việc tấn công vào ḷng tham và quyền lực của
các đại công ty là trọng tâm trong nhiệm kỳ tổng thống của
ḿnh, đă giải thích các hành động mới nhất của chính phủ tại
cuộc họp lần thứ năm của
Competition Council
-
Hội đồng về Cạnh tranh gồm 18 cơ quan chính phủ của ông:
"Đó là về công bằng cơ bản," ông nói với các thành viên
Nội các và các thành viên hội đồng khác, nhấn mạnh sự cần thiết
phải tiếp tục giảm lạm phát. "Mọi người đă mệt mỏi v́ bị đối xử
như những con mồi dễ bị lường gạt."
Nhà Trắng
cho biết 4 thập niên "triết lư kinh tế sai lầm", tức là
Chủ nghĩa tư bản Tân tự do, đă dẫn đến việc gia tăng mức
độ tập trung vào 3 phần 4 các ngành công nghiệp của Mỹ, khiến
mỗi hộ gia đ́nh Mỹ trung b́nh phải thiệt tḥi tới 5.000 USD một
năm do giá cả cao hơn và lương thấp hơn. Tổng thống Biden
nói: “Chúng ta không thể chấp nhận những vụ sáp nhập công ty
tồi tệ dẫn đến sa thải hàng loạt, giá cả cao hơn và ít lựa chọn
hơn cho người lao động lẫn người tiêu dùng”. "Tôi đă từng
nói, chủ nghĩa tư bản không có cạnh tranh không phải là chủ
nghĩa tư bản. Đó là bóc lột."
Nỗ lực thúc đẩy cạnh
tranh nhiều hơn
của Biden tập trung vào việc tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các
công ty nhỏ. “Chúng ta không thực sự có một thị trường cạnh
tranh trừ khi có sự thực thi mạnh mẽ của chính phủ,” Morgan
Harper của American Economic Liberties Project - Dự án Tự do
Kinh tế Hoa Kỳ nói, "Các vấn đề từ việc tập trung trên toàn bộ
nền kinh tế đang gây thiệt hại cho người lao động, làm tổn
thương các doanh nghiệp nhỏ và người tiêu dùng."
Cần có
nhiều chính sách như thế để khôi phục niềm tin của dân chúng vào
hệ thống chính trị, đồng thời giảm bớt bất b́nh đẳng kinh tế sâu
rộng là nguy cơ hỗn loạn do tác động tiêu cực của Chủ nghĩa tư
bản Tân tự do trong hơn bốn mươi năm nay.
Phạm Vũ
Thịnh
Sydney 19/07/2023