|
Ung Thư Bạch Cầu
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Bạch cầu là một trong ba loại tế bào của máu: hồng cầu, bạch cầu
và tiểu bào.
Hồng cầu chứa huyết cầu tố, mang dưỡng khí nuôi các cơ quan bộ phận.
Bạch cầu có nhiệm vụ chống lại các chất lạ như vi sinh vật, hóa chất
xâm nhập cơ thể và tạo ra kháng thể.
Tiểu cầu giúp máu đóng cục, tránh xuất huyết ở vết thương.
Tế bào máu được tạo ra từ các tế bào gốc đa hiệu (pluripotent stem
cells) ở tủy xương. Nơi đây, tế bào máu lớn lên cho đến khi trưởng
thành th́ chuyển sang ḍng máu. B́nh thường, các tế bào này tăng
sinh theo nhu cầu của cơ thể. Khi già yếu, chúng tự hủy và được thay
thế bằng những tế bào mới trẻ trung, nhiều sinh lực.
Phần dung dịch lỏng của máu là huyết tương, có các hóa chất ḥa tan
như đạm, hormone, khoáng, vitamins, kháng thể.
Ung thư bạch cầu (thường được gọi là “ung thư máu”) là bệnh trong
đó tủy và hệ bạch huyết bị rối loạn và tạo ra những bạch cầu ác
tính. Chúng tăng sinh ngoài tầm kiểm soát và nhu cầu của cơ thể, lấn
át các tế bào khác trong máu khiến cho máu không hoàn thành được các
nhiệm vụ thường lệ.
Bệnh có cả ở súc vật như mèo, heo, trâu ḅ và dĩ nhiên ở người. Với
người, bệnh xuất hiện ở bất cứ tuổi nào. Nam giới bị ung thư máu
nhiều hơn nữ giới.
Ung thư có thể là măn tính hoặc cấp tính, tùy theo tốc độ tiến triển
t́nh trạng nặng nhẹ của bệnh.
Trường hợp cấp tính, xuất hiện nhiều tế bào máu chưa trưởng thành và
vô dụng ở tủy xương và máu. Bệnh nhân bị thiếu máu v́ hồng cầu thấp;
dễ xuất huyết v́ thiếu tiểu cầu; dễ mắc bệnh nhiễm v́ khả năng tự vệ
giảm. Do đó bệnh trở nên trầm trọng rất nhanh.
Trong măn tính, dấu hiệu xảy ra chậm hơn, bệnh nhân có đủ thời gian
tạo ra tế bào máu trưởng thành nhưng có thể chuyển sang t́nh trạng
cấp tính.
Ung thư bạch cầu măn tính nhiều hơn cấp tính và thường thấy ở người
ngoài 67 tuổi. Trẻ em dưới 19 tuổi thường hay bị ung thư máu cấp
tính lympho bào.
Ung thư cũng được chia loại tùy theo bạch cầu hiểm ác được tạo ra từ
hệ bạch huyết hoặc từ tủy xương.
Nguyên nhân
Nguyên nhân đích thực của bệnh chưa được biết rơ, nhưng một số rủi
ro có thể gây ra bệnh. Đó là:
a.Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ, như trường hợp các nạn nhân bom
nguyên tử ở Nhật vào cuối Thế Chiến II, vụ tai nạn nổ ḷ nguyên tử
Chernobyl (Ukraine) năm 1986 hoặc ở bệnh nhân tiếp nhận xạ trị.
b.Bệnh nhân ung thư được điều trị bằng dược phẩm.
c.Làm việc trong môi trường có nhiều hóa chất như benzene,
formaldehyde.
d.Một số bệnh do thay đổi gene như hội chứng Down, do virus hoặc vài
bệnh về máu.
Dấu hiệu
Dấu hiệu của bệnh thay đổi tùy theo số lượng bạch cầu trong máu và
tùy theo nơi mà các bạch cầu ác tính tụ tập. Các dấu hiệu này cũng
không tiêu biểu cho ung thư bạch cầu.
Sau đây là các dấu hiệu thường thấy:
- nóng sốt,
- đổ mổ hôi ban đêm,
- dấu hiệu thần kinh như nhức đầu,
- mệt mỏi, suy yếu
- xuống cân,
- dễ dàng mắc các bệnh truyền nhiễm v́ khả năng miễn dịch suy yếu,
- xuất huyết dễ dàng v́ thiếu tiểu cầu,
- sưng và chẩy máu nướu răng, da dễ bị bầm tím,
- đau nhức xương, khớp,
- bụng chướng, gan, lách sưng, đau v́ chứa nhiều bạch cầu ung thư,
- nổi hạch ở cổ, nách…
Nếu không được điều trị, ung thu cấp tính đưa tới tử vong rất
mau.
Ung thư măn tính có thể không có dấu hiệu, khó chẩn đoán, dễ tử vong
v́ bội nhiễm các loại vi khuẩn.
Đôi khi bệnh được khám phá t́nh cờ trong khi khám sức khỏe tổng
quát.
Chẩn đoán bệnh
Để xác định bệnh, bác sĩ sẽ thực hiện các bước như sau:
-khám tổng quát cơ thể, t́m coi gan, lách, hạch có sưng;
-thử nghiệm đếm số tế bào máu và số lượng huyết cầu tố, các chức
năng của gan, thận;
-xét nghiệm tế bào tủy xương và nước tủy,
-chụp h́nh X-quang cơ thể.
Điều trị
Bệnh cần được các bác sĩ chuyên môn nhiều ngành như huyết học, u
bướu hóa xạ trị chăm sóc, điều trị.
Mục đích điều trị là đưa bệnh tới t́nh trạng không c̣n triệu chứng,
bệnh nhân b́nh phục với tế bào máu và tủy xương lành mạnh như trước.
Phương thức điều trị tùy thuộc vào một số yếu tố như loại ung thư,
giai đoạn bệnh, tuổi tác và t́nh trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Các phương pháp trị liệu gồm có:
a.Hóa trị (Chemotherapy)
Hóa trị dùng các dược phẩm khác nhau bằng cách uống, chích vào tĩnh
mạch hoặc vào tủy xương để tiêu diệt tế bào ung thư.
Hóa trị rất công hiệu và được áp dụng cho đa số bệnh nhân.
Có nhiều loại thuốc và người bệnh có thể chỉ uống một thứ hoặc phối
hợp hai ba thuốc.
Tuy nhiên, hóa trị cũng ảnh hưởng tới các tế bào b́nh thường và gây
ra một số tác dụng phụ như rụng tóc, lở môi miệng, nôn mửa, tiêu
chẩy, ăn mất ngon, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn sinh sản.
b.Xạ trị (Radiation therapy)
Với một máy phát xạ lớn, các tia phóng xạ được đưa vào các bộ phận
có nhiều bạch cầu ung thư tụ tập, như lá lách, năo bộ để tiêu diệt
chúng.
Tác dụng phụ gồm có: mệt mỏi, viêm đau nơi da nhận tia xạ.
c.Sinh trị liệu (Biological Therapy)
C̣n gọi là miễn dịch trị liệu, sinh trị liệu xử dụng kháng thể để
hủy hoại tế bào ung thư. Kháng thể là những chất đạm đặc biệt được
cơ thể sản xuất khi có một vật lạ xâm nhập. Kháng thể này sẽ phát
hiện và tiêu diệt các vật lạ đó khi chúng trở lại cơ thể.
Sinh trị liệu được thực hiện qua hai phương thức:
.Gây miễn dịch để kích thích, huấn luyện hệ miễn dịch nhận diện và
tiêu diệt tế bào ung thư
.Cho bệnh nhân dùng các kháng thể đặc biệt được sản xuất trong pḥng
thí nghiệm để trị ung thư.
d.Ghép tế bào gốc (Stem Cell Transplant)
Ghép tủy là lấy tủy xương (thường là ở xương hông) có tế bào gốc
của một người cho khỏe mạnh rồi đưa vào người bệnh với mục đích tái
tạo tế bào máu và hệ thống miễn dịch.
Tế bào gốc từ máu, cuống rốn thai nhi và nhau thai cũng được dùng để
điều trị một vài loại ung thư máu.
Trong bệnh ung thư bạch cầu, tế bào gốc của tủy trở thành bệnh hoạn,
sản xuất ra quá nhiều bạch cầu non yếu nhưng độc ác, gây trở ngại
cho sự tăng sinh của tế bào b́nh thường ở máu. Chúng cũng xâm nhập
vào các bộ phận khác của cơ thể và gây nhiều rối loạn khác.
Để tiêu hủy các tế bào bất thường này, cần dùng một số lượng khá lớn
hóa chất hoặc phóng xạ. Các chất này cũng tác hại lên các tế bào
lành mạnh trong máu và tủy.
Ghép tủy không hoàn toàn bảo đảm tránh được sự tái phát của ung thư
nhưng có thể tăng khả năng trị bệnh và kéo dài đời sống người bệnh.
Pḥng ngừa
Một số bệnh ung thư có thể pḥng ngừa bằng cách giảm thiểu tiếp xúc
với rủi ro gây ung thư (như tránh khói thuốc lá), bằng nếp sống lành
mạnh (không hút thuốc lá, uống nhiều rượu…), bằng dinh dưỡng đầy đủ
hợp lư. Riêng với ung thư bạch cầu th́ không có các rủi ro rơ rệt để
pḥng tránh.
V́ vậy người thường xuyên tiếp xúc với phóng xạ, hóa chất độc mà có
những dấu hiệu bệnh bất thường đều nên đi kiểm tra sức khỏe theo
định kỳ để sớm khám phá ra bệnh.
Ghép Tế Bào Gốc.
Vào giữa thế kỷ thứ 19, các khoa học gia người Ư đă gợi ư rằng
tủy xương là nguồn gốc của tế báo máu nhờ có một hóa chất nào đó
trong tủy. Tới đầu thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu chứng minh là một
số tế bào ở tủy tạo ra tế bào máu. Họ gọi các tế bào này là “tế bào
gốc”-stem cells. Kết quả nhiều nghiên cứu kế tiếp đă xác định dữ
kiện này.
Tế bào gốc có trong tủy xương và máu. Tủy là lớp mô bào xốp nằm giữa
các khoảng trống của xương. Ở trẻ sơ sinh, tất cả xương đều có tủy
hoạt động mạnh. Tới tuổi tráng niên, tủy ở xương tay chân ngưng hoạt
động trong khi đó tủy ở các xương sọ, hông, sườn, ức, cột sống vẫn
tiếp tục sản xuất tế bào gốc.
V́ máu và tủy đều chứa nhiều tế bào gốc cho nên có nhiều đề nghị các
chữ “ghép tế bào gốc -stem cells transplantation” để thay thế cho
“ghép tủy xương-bone marrow transplantation”.
Đặc tính của các tế bào gốc là có thể tự sinh ra tế bào khác y hệt
như ḿnh và tạo ra các tế bào trưởng thành như hồng cầu, bạch huyết
cầu, tiểu cầu.
Ngoài tủy xương, tế bào gốc c̣n có trong ḍng máu lưu thông hoặc máu
từ cuống rốn thai nhi, nhau thai..
Ở tủy xương, cứ khoảng 100,000 tế bào máu th́ có một tế bào gốc,
trong khi đó số lượng tế bào gốc ở máu chỉ bằng 1/100 ở tủy.
Khái niệm ghép tủy để trị bệnh được khảo sát một cách khoa học
vào cuối thế chiến II khi có nhiều nạn nhân bị hoại tủy do tiếp cận
với phóng xạ, đặc biệt là sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật.
Kỹ thuật ghép tủy xương được thực hiện thành công vào năm 1968 để
điều trị các bệnh ung thư bạch cầu, thiếu máu vô sinh (aplastic
anemia), u ác tính các hạch bạch huyết như bệnh Hodgkin, rối loạn
miễn dịch và vài loại u như ung thư noăn sào, vú.
Trong ghép tủy, các tế bào bệnh hoạn của tủy bị tiêu diệt và tế bào
gốc lành mạnh được truyền vào máu, tập trung vào ổ xương và bắt đầu
sinh ra tế bào máu b́nh thường cũng như thiết lập một hệ miễn dịch
mới.
Ghép tế bào gốc cứu sống nhiều người và chỉ thực hiện được khi có
người cho thích hợp. Điều này không dễ dàng, v́ để phương thức thành
công, tế bào đôi bên phải hầu như 100% tương xứng. Chỉ dưới 30% bệnh
nhân cần ghép tế bào mầm có thể t́m được tương xứng ở thân nhân.
Nếu người nhận và người cho là sanh đôi đồng nhất (identical
twins), do một trứng được thụ tinh rồi phân chia tạo ra hai thai
nhi, th́ mọi sự êm đẹp, không có phản ứng khước từ (reject).
Ngược lại khi người cho và người nhận không là sinh đôi đồng nhất
th́ cần phải t́m một người cho có loại tế bào gần tương tự như tế
bào người nhận. Đây là việc làm khá khó khăn, tốn nhiều thời gian để
có đối tác tương ứng.
Nhu cầu của bệnh nhân cần được ghép tế bào gốc rất cao mà kiếm được
hai loại tế bào tương xứng giữa người cho và người nhận rất khó
khăn.
V́ thế nhiều tổ chức bất vụ lợi quốc tế đă đứng ra để ghi danh những
vị t́nh nguyện hiến tủy hoặc tế bào mầm trong máu. Mỗi vị ghi danh
là một niềm hy vọng cho những bệnh nhân khao khát chờ đợi được cứu
sống.
Hiện nay danh sách có khoảng hơn 10 triệu người trên thế giới sẵn
sàng dâng hiến.
Hiến tủy được thực hiện tại cơ sở y tế với đầy đủ phương tiện, sau
nhiều sửa soạn chu đáo cho nên rất an toàn. Mọi người từ 18 tới 60
tuổi, có sức khỏe tốt và hội đủ một số tiêu chuẩn y tế đều có thể
ghi danh.
Tại Hoa Kỳ, muốn ghi danh, xin kêu điện thoại số 1-800-627-7692 để
biết thêm chi tiết.
Kết luận
Mỗi ngày có khoảng 6000 người bị ung thư bạch cầu, u lympho bào ṃn
mỏi có được ân nhân tương xứng để nhận lănh tế bào gốc trong tủy,
trong máu để tránh khỏi lưỡi hái tử thần.
Xin hăy mở rộng lượng từ tâm.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ
|
|