Từ Bắc Kỳ Di Cư tới Tỵ Nạn
Chính Trị.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm (*) di cư từ Bắc vào Nam, lang tôi xin ra
ngoài lănh vực y học, ghi lại vài hàng về biến cố đau buồn này. Để
khỏi “Lạc Bất Tư Thục”, ham vui mà quên cả quê hương, bản quốc...Một
quê hương c̣n nhiều tai ương.
Đang giờ học Việt Văn của giáo sư Nguyễn Tường Phượng, th́ tôi
được nhân viên pḥng Giám Học kêu xuống gặp người nhà. Tôi học lớp
ban A Trung Học Chu Văn An ở Hà Nội.
Tới văn pḥng, tôi thấy bố tôi đang ngồi nói chuyện với Thầy Hiệu
Trưởng Vũ Ngô Xán và Thầy Giám Học Vũ Đức Thận. Bố tôi quen với hai
cụ qua người anh họ tôi là ông Vũ Ngọc Các, chủ nhiệm báo Dân Chủ ở
đường Gia Long Hà Nội. Bố cho tôi hay là đă xin phép hai cụ để cho
tôi nghỉ học sớm và theo ông về quê có việc.
Hai bố con về nhà tôi trọ để thu xếp đồ đạc rồi ra bến xe đ̣ về
tỉnh Hải Dương. Trên đường đi, bố tôi cho hay là phải di cư vào Nam
ngay v́ Việt Minh sắp tiếp thu Hà Nội và các tỉnh bên đây Bến Hải.
Người quốc gia chỉ có mấy tháng để di cư.
Vào thời gian đó, t́nh h́nh chiến sự miền Bắc sôi động ác liệt
mạnh mẽ. Đi đâu cũng thấy nói tới sự rút lui của quân đội viễn chinh
và quân đội quốc gia. Khi đó, phương tiện truyền tin là đài phát
thanh và mấy tờ báo, chứ đâu có internet, truyền h́nh như ngày nay,
nên tin tức rất hiếm hoi, đôi khi chỉ là truyền khẩu.
Có tin đồn rằng, v́ muốn ḥa giải với Tây phương, Cộng sản Trung
Hoa và Nga Sô Viết đă làm áp lực với đàn em phải kư kết hiệp định
Geneve; rằng cộng sản Việt đ̣i chia đất nước từ vĩ tuyến 13 nhưng
sau đó phải chấp nhận vĩ tuyến 17; rằng họ muốn quân đội viễn chinh
Pháp rút lui trong 90 ngày, nhưng các quốc gia đàn anh quyết định là
300 ngày...để mọi người có thời gian thoát ách cộng sản.
Rất nhiều dân chúng Hà Nội và các tỉnh lỵ miền Bắc hốt hoảng, vội
vă sửa soạn thu vén di cư vào Nam. Uỷ Ban Bảo Vệ Bắc Việt đă được
thành lập song hành với Ủy Ban Di cư.
Đường phố ngổn ngang những đồ vật mang ra bán. Những tủ chè, sập
gụ, những lư đồng, b́nh sứ rồi quần áo, gia dụng. Thôi th́ đủ thứ.
Ai ai cũng cố bán tống bán tháo để có chút vốn di cư.
Đây là cuộc di cư vĩ đại của cả triệu đồng bào miền Bắc bỏ mồ mả
cha ông chỉ v́ không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản ngoại lai. Họ đă
nghe nói cũng như chứng kiến sự khắc nghiệt của chính quyền đối với
dân chúng ở vùng do chế độ kiểm soát. Những đấu tố, những thủ tiêu
không nương tay, những kiểm soát theo dơi đời sống rất khắt khe.
Bố tôi đang làm việc tại ṭa Tỉnh Trưởng Hải Dương. Ông cũng chỉ
là nhân viên phù động do quen biết chứ không phài là công chức chính
ngạch.
Xuất thân con nhà có chút ruộng đất, nên trước chiến tranh, ông
chỉ giao du hưởng thụ. Ông nội mua cho bố tôi chức Hội trong làng,
nên cũng có một vài vai vế chiếu trên chiếu dưới đối với chốn đ́nh
trung và ngoài xă hội.
Theo anh tôi th́ ông cụ cũng “phá gia chi tử” lắm. Thời đó làm ǵ
có ngân hàng, chi phiếu, thẻ tín dụng nên đỏ đen hết tiền mặt là văn
tự ruộng đất nhà cửa được đưa ra để cầm bán.
Gia đ́nh chúng tôi phải bỏ quê lên tỉnh làm ăn v́ không thích hợp
với “kháng chiến địa phương”. Ông bác ruột bị thủ tiêu v́ giữ chức
Cửu trong xă. Anh tôi khi đó mới 12 tuổi không sớm băng đồng trong
đêm chạy lên huyện th́ cũng bị bắt. Chồng bà cô ruột của tôi bị bắt
nhầm, tưởng là bố tôi. Ông cụ đă về vùng tề từ mấy ngày trước. Lư do
là họ nhà tôi làm chủ một số điền thổ trong tổng và được liệt kê vào
hạng “cường hào, ác bá”.
Hai bố con về tỉnh để sửa soạn ra đi. Chúng tôi phải xuống Hải
Pḥng để đi tầu thủy, v́ khi đó chương tŕnh di cư đang ở cao điểm
nên di tản bằng đường hàng không trở nên rất hiếm hoi.
Những ngày nấn ná sửa soạn, bán nhà cửa đồ đạc, chờ ngày lănh
giấy lên tầu là những ngày rất giao động.
Họ hàng ở dưới quê lên thăm hỏi, chia tay. Nhiều người nỉ non
quyến dụ. Nào là đất nước thanh b́nh đến nơi rồi, tại sao không ở
lại mà hưởng “tự do, hạnh phúc”! Rằng chính phủ rất khoan hồng, mọi
người đều được tiếp tục làm việc như trước.
Một bà bạn của gia đ́nh có cô con gái rượu th́ “cháu ở lại đi,
mai mốt đất nước thống nhất th́ tha hồ mà vào thăm Sài g̣n”.
Ông chú ruột làm phát ngân viên cho Bảo Chính Đoàn tỉnh được gia
đ́nh vợ hai móc nối ở lại: “cứ mang hết tiền quỹ về quê xây dựng sự
nghiệp, giúp làng xóm, tha hồ mà sướng”.
Nhưng bố tôi đă nhất quyết ra đi v́ đă phần nào hiểu rơ bản chất
của chế độ. Bà vợ kế ở lại với một đứa con gần hai tuổi và bụng chửa
hơn bốn tháng, v́ bố mẹ ở dưới quê muốn gắn bó với quê cha đất tổ.
Ngày ngồi trên xe lửa từ Hải Dương xuống Hải Pḥng mới thực vất
vả và chứng kiến nhiều bi hài kịch.
Tầu đậu ở nhiều ga dọc theo đường số 5 để lấy thêm khách, mà hầu
hết là xuống Pḥng để vô Nam bằng tầu biển há mồm. Cán bộ địa phương
được tung ra để gây trở ngại cho người di cư. Thôi th́ khóc lóc, níu
kéo ở lại, ngăn cản lên tầu. Cũng có những chửi mắng “đi liếm chân
đế quốc làm Việt gian cho giặc Pháp”. Chẳng khác ǵ gán ghép “tàn dư
Mỹ Ngụy” mấy chục năm sau này. Rồi vứt đồ, đánh đập cho bơ ghét.
Làm thân rau muống Bắc kỳ di cư ở vùng đất trù phú trong Nam,
người dân miền Bắc đă đóng góp nhiều cho mảnh đất quê hương. Chỉ vỏn
vẹn có hai thập niên, mọi người bên này vĩ tuyến 17 đă xây dựng được
một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam với nền tảng khai phóng, nhân
bản; một nền văn học tự do với nhiều dân tộc tính; một chế độ y tế
xă hội phục vụ phúc lợi người dân tương đối đầy đủ. Và cũng đă hy
sinh nhiều xương máu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản.
Nhưng kết quả là chỉ tránh được hiểm họa Đỏ cho một phần nhỏ của thế
giới với cái giá là một lần nữa lại tỵ nạn vào phần tư cuối của thế
kỷ hai mươi. Khi mà các thế lực quốc tế không c̣n cần đến ḿnh trong
nhu cầu của họ.
Từ Bắc Kỳ Di Cư tới tỵ nạn chính trị thấm thoát mà đă nửa thế kỷ,
năm mươi năm, mười lăm ngàn hai trăm năm mươi ngày dài đằng đẵng.
Nh́n về quê hương th́ vẫn thấy nhiều ngậm ngùi chua sót. Những
người v́ ḥa b́nh và thống nhất ở lại miền quê th́ đời sống không
khác ǵ mấy, so với 50 năm về trước. Có chăng là ngọn đèn điện,
chiếc ti vi, chiếc xe gắn máy. Vẫn quần quật giật gấu vá vai lam lũ.
Vẫn chân đất với bùn lầy nước lỗ chân trâu. Ngày kiếm được việc làm
trị giá 50 xu Mỹ là mừng rồi.
Ông chú đă sớm ra người thiên cổ, v́ những riếc móc theo địch,
hại nước hại dân, tịch thu tài sản. Bà thím già nua, kèm nhèm quệt
nước mắt với bầy cháu nội ngoại tḥ ḷ mũi xanh th́ : “Giá mà ngày
đó chú thím và các em theo chân bố cháu!” Cô em gái lao động Đông Âu
dành dụm được chút tiền mở sạp hàng xén cho qua ngày. Mấy đứa cháu
chưa bao giờ biết mặt th́ “chúng cháu theo giải phóng vào kiếm các
chú th́ các chú đă ra đi, không đợi chúng cháu đi với”.
Báo chí trong nước phản ảnh đầy rẫy những than phiền của dân
chúng cũng như tuyên bố của viên chức chính quyền các cấp về tham
nhũng, cửa quyền, bất công, thất nghiệp, tệ đoan xă hội, giáo dục
tụt hậu. Đă có những chương tŕnh, đề nghị, nhưng áp dụng, thực hiện
th́ như cứ nửa vời, cầm chừng, trồi sụt như kinh nguyệt của bà nạ
ḍng sắp vào tuổi măn kinh.
Khoảng cách giầu nghèo từ nông thôn tới thành thị sao mà quá
chênh lệch. Một bữa “chiêu đăi” cá sông Việt Tŕ bẩy món với rượu
ngoại của người giầu quyền thế tốn công quỹ cơ quan cả dăm bẩy trăm
Mỹ kim như không. Trong khi đó th́ ngân sách quốc gia dành cho y tế
chỉ có năm mỹ kim mỗi năm cho một đầu người. Tư bản Mỹ thực phí phạm,
bỏ ra những 2000 tiền đô xanh.
Về cộng đồng tỵ nạn th́ tích cực cũng nhiều nhưng tiêu cực cũng
không phải là ít.
Trong gần ba mươi năm, hơn một triệu người Việt đă h́nh thành một
khối thiểu số có những sắc thái đặc biệt vừa làm phong phú và vừa
thay đổi một phần nào cấu trúc căn bản của Hiệp Chủng Quốc Mỹ.
Họ đi từ số không, không có một nền tảng có sẵn như người Trung
Hoa hoặc di dân từ các quốc gia Âu Châu tới Mỹ từ cả trăm năm trước.
Ho vật lộn với nhiều khó khăn để sinh tồn, để thích nghi với nếp
sống mới và để tạo dựng một tương lai vững chắc cho thế hệ con cháu.
Họ âm thầm làm việc, chịu đựng mọi thử thách, kỳ thị trong những năm
đầu. Nếu đa số dân chúng Mỹ không muốn quay lưng trước hoàn cảnh
tuyệt vọng của con dân một quốc gia đồng minh với họ trước đây, th́
cũng có một thiểu số lạnh nhạt với lớp di dân này.
Khi mới tới, họ được phân tán khắp 50 tiểu bang để sự cứu giúp
được dễ dàng cũng như tránh sự tụ nhập quá đông người Việt ở một địa
phương. Nhưng rồi dần dà, sau khi đă có lông có cánh, họ cũng t́m về
với nhau, trong những tụ điểm thích hợp để tương trợ, d́u nhau mà đi
lên. Dù sao th́ “một giọt máu đào cũng hơn ao nước lă”. Và “Một cây
làm chẳng nên non; Ba cây chụm lại lên ḥn núi cao”.
Với bản tính nhẫn nhục, cần cù, thực tế, dễ thích nghi, có nhiều
sáng kiến nhỏ, họ đă tham gia vào nhiều khía cạnh khác nhau của đời
sống Mỹ quốc. Họ đă tạo dựng nên những cơ sở kinh tế, thương mại
vững chắc, củng cố và phổ biến văn hóa Việt Nam vào nền đa văn hóa
địa phương.
Các thế hệ Việt Nam thứ hai, thứ ba đă mau lẹ tiến tới để thu
nhập tinh hoa kiến thức qua nền giáo dục đa diện của nước Mỹ. Họ đă
có nhiều đóng góp khoa học, kỹ thuật đáng khen ngợi cũng như cung
hiến cho nền hành chánh tiểu bang và liên bang nhiều chuyên gia có
khả năng điều hành, lănh đạo. Sự thành công của thế hệ này đă tạo ra
nhiều ngạc nhiên cho con dân bản xứ.
Càng ngạc nhiên hơn khi ta nh́n lại khả năng của nhóm di dân mới.
Tới Mỹ không sửa soạn với hai bàn tay trắng. Họ tức tưởi, đánh tháo
rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn trong vội vàng, hoảng sợ, không kịp suy
nghĩ, nói chi đến sửa soạn. Họ không biết là sẽ đi đâu, không biết
tương lai sẽ ra sao.
Họ vào nước Mỹ đa số không nói được tiếng Anh, không có một Mỹ
kim trong túi. Họ đến từ một văn hóa với nhiều khép kín, ràng buộc
vào một nếp sống phóng khoáng, tự do. Họ lạc vào rừng người có cái
nh́n khác biệt về chủng tộc, giống tính. Họ chóng mặt trước sự tiến
bộ, phồn thịnh của một quốc gia mới chỉ có hơn hai trăm năm lập quốc.
Ấy vậy mà họ đă vươn lên, thành công tạo dựng một thế đứng vững chắc
trong một quốc gia nhiều chủng tộc .
Nhưng tiêu cực th́ cũng nên kể ra, để rút kinh nghiệm.Theo nhiều
người, cũng c̣n một số điều tưởng như cần làm, cần thay đổi, thích
nghi.
Chẳng hạn, có ư kiến cho rằng, nếu cộng đồng vững mạnh th́ bạn
cũng lắng nghe mà đối phương cũng nể v́; và rằng sống trên đất nước
mà quyền tự do, dân chủ được tôn trọng tối đa, chẳng nhẽ lại cứ măi
măi “ Con đường của ta là duy nhất đúng”. Chúng ta cùng có mục tiêu
là tranh đấu để có tự do, dân chủ cho đồng bào ở Việt Nam cơ mà.
Trong một bài b́nh luận, kư giả kỳ cựu Phạm Trần đă có ư kiến
“Nhưng trong thời đại bây giờ, chiến thắng cũng có thể đạt được
không phải bằng quân sự mà bằng kinh tế, ngoại giao và thông tin nên
mặt trận này đ̣i hỏi người Việt tị nạn phải thay đổi suy tư trong
công cuộc đấu tranh với chính quyền Hà Nội... Và sau cùng mỗi cử tri
người Việt cũng nên tự hỏi ḿnh: Trong ngót 30 năm qua sống ở nước
ngoài, tôi đă làm được ǵ cho đồng bào tôi, hay tôi chỉ biết co ro
ngồi một chỗ để hy vọng viển vông và sợ sệt mông lung”. Việt
Báo-29-10-2004.
Ngoài ra, mặc dù đă sống trên đất Mỹ gần ba mươi năm, nhưng một
số không nhỏ đồng hương ta vẫn chưa hoàn toàn hội nhập vào ḍng
chính; chưa tận dụng các quyền lợi mà người công dân Hoa Kỳ được
hưởng cũng như chu toàn các bổn phận khi vào quốc tịch. Do đó nhiều
người chịu thiệt tḥi cũng như chưa đóng góp đúng mức. Một trong
những lư do là trở ngại ngôn ngữ, lơ là bổn phận và thiếu hướng dẫn.
Ngoài ra, người ḿnh vốn khiêm nhường, chịu đựng, chín bỏ làm mười,
nên không có những ra mặt đ̣i hỏi quyền lợi như công dân Mỹ.
...Hầu hết những người theo bố mẹ làm Bắc Kỳ di cư rồi cùng với
đồng hương Miền Nam đứng mũi chịu sào đưa gia đ́nh đi tỵ nạn chính
trị ở ngoại quốc đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Hôm nay
ngồi lại với nhau, ôn lại ngày lẽo đẽo lên tầu há mồm vô Nam dọc
theo bờ biển chữ S, rồi bồng bế con cái di tản bằng phương tiện tiến
bộ hơn, mà thấy nao nao, ướt mắt.
Tương lai như ch́m dần…
Thôi đành trông cậy ở thế hệ đến sau, trong và ngoài nước, nh́n
rơ thực tại, nhiệt huyết hơn thẳng thắn hơn, công bằng hơn.
Để xây dựng một cộng đồng uy tín, một quê hương có tự do, dân chủ
cụ thể, thực tế chứ không chỉ trên giấy tờ, văn bản. Dù là tương đối.
V́ có c̣n hơn không.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Tháng Tư, 2004 (*)
Texas – Hoa Kỳ
|