Câu Chuyện Thầy Lang
Tiến bộ của phẫu thuật
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Giải Phẫu là thủ thuật để trị bệnh hoặc
nghiên cứu cơ thể theo phương pháp y học bằng cách rạch, cắt một bộ
phận với dao kéo hoặc để khâu vá kín một vết thương mở rộng.
Với mục đích đó, giải phẫu được áp dụng
từ thuở xa xưa.
Các nhà khảo cổ đă t́m thấy ở Ukraine,
Peru những sọ người tiền sử mang những lỗ khoan (trepanation) trên
sọ mà không đụng chạm tới màng năo, với mục đích loại bỏ bệnh tật do
tà ma xâm nhập, chữa chấn thương năo bộ hoặc chữa nhức đầu, kinh
phong, tâm bệnh. Khoan sọ là phẫu thuật kỳ diệu nhất trong lịch sử
giải phẫu, tồn tại tới thời Trung Cổ và được thực hiện với một con
dao, một miếng đá hoặc một mảnh đồng sắc bén. Ngày nay, khoan sọ đôi
khi cũng c̣n được dùng.
Cắt bao da quy đầu (circumcision) được
thực hiện từ 2400-3000 năm trước công nguyên đối với các tu sĩ, nhân
viên hoàng gia v́ lư do vệ sinh hoặc một nghi lễ tôn giáo ở châu
Phi, nam Á châu và Do Thái Giáo. Đây là một phẫu thuật có tính cách
lựa chọn (selective surgery) khá sớm.
Y sĩ Hy Lạp Claudius Galen (130-200AD)
được coi như có bàn tay tuyệt hảo trong việc mổ xẻ cơ thể để chữa
bệnh cũng như nghiên cứu cấu tạo, chức năng các cơ quan. Ông đă dùng
vết thương cơ thể như cánh cửa sổ để t́m hiểu về sự cấu tạo con
người.
Một điều mà có lẽ ít người để ư là vào
thời Trung Cổ bên Âu châu (từ 1100-1400 sau công nguyên), công việc
mổ xẻ, chữa bệnh bằng dao kéo lại do mấy vị “thợ hớt tóc” đảm trách.
Trước đó, việc trị bệnh ưu tiên dành cho các tu sĩ. Để các thầy
thuốc tu sĩ không đụng chạm tới máu, Đức Giáo Hoàng ra lệnh không
cho họ được làm công việc mổ xẻ. Việc mổ xẻ chữa bệnh được giao cho
giới “thợ cạo”, dưới sự giám thị của tu sĩ, v́ họ khéo tay khéo chân,
quen sử dụng dao, kéo “gọt đầu, xén tóc”. Vào thập niên 1540, vua
Henri VIII sát nhập Hội Giải phẫu với Đoàn Hớt Tóc để thành lập Đoàn
Hớt Tóc- Giải phẫu. Các phẫu thuật gia- thợ hớt tóc (baber-surgeons)
này tổ chức thành hội chuyên nghiệp và tồn tại tới thế kỷ 18. Họ
không có huấn luyện y khoa, thường được giao phó chăm sóc thương
binh trong chiến tranh, lấy máu cũng như lưu ngụ tại các lâu đài để
phục vụ các vị chủ nhân danh gia, vọng tộc.
Một barber-surgeon nổi tiếng, đă đóng
góp rất nhiều cho nền y khoa là Ambroise Pare (1510-1590), người
Pháp.
Từ một thanh niên ít học vấn, tập sự hớt
tóc tại một tỉnh lỵ nhỏ ở Pháp rồi trở thành học viên giải phẫu tại
bệnh viện Hotel Dieu, Paris, ông đă tận dụng sự khéo tay của ḿnh để
chăm sóc thương bệnh binh cũng như t́m kiếm các phương pháp băng bó,
khâu vá vết thương. Sau nhiều năm nghiên cứu, ông để lại nhiều tác
phẩm giá trị về giải phẫu và được coi như cha đẻ của phẫu thuật hiện
đại.
Ngày nay, giải phẫu là một chuyên ngành
y khoa liên quan tới việc mổ bệnh nhân để chẩn bệnh, trị bệnh và
chữa lành các bệnh cũng như những hoàn cảnh bất thường.
Giải phẫu có nhiều ngành khác nhau tùy
theo từng bộ phận của cơ thể.
Sau khi tốt nghiệp với văn bằng tiến sĩ
y khoa, các vị này học vể giải phẫu tổng quát rồi tiếp tục được huấn
luyện chuyên ngành. Có bác sĩ chuyên mổ về xương, lồng ngực, tim
phổi, thần kinh, thẩm mỹ cũng như sản phụ khoa, tai mũi họng…
Thường thường giải phẫu gia được các bác
sĩ gia đ́nh chăm sóc ban đầu giới thiệu bệnh nhân tới v́ nhu cầu trị
liệu. Họ khám rồi chẩn đoán bệnh, đưa ra các phương thức trị liệu để
cùng bệnh nhân thảo luận, lựa chọn. Họ đứng mổ nhiều giờ trong pḥng
giải phẫu và làm việc chung với nhiều chuyên viên khác như chuyên
viên thuốc mê, điều dưỡng, phụ mổ… để công việc được hoàn hảo.
Các phẫu thuật gia cũng nghiên cứu để
t́m ra các phương pháp mổ xẻ hữu hiệu, ít đau đớn, ít biến chứng cho
bệnh nhân cũng như giản dị khi thực hiện.
Các loại phẫu thuật
Phẫu thuật được chia làm nhiều loại, tùy
theo mục đích, mức độ lớn nhỏ cũng như mức độ trầm trọng của bệnh
1-Tùy theo mức độ lớn
nhỏ
-Đại giải phẫu là các phương thức mổ xẻ
lan rộng, xâm lấn (invasive) liên can tới các bộ phận cơ thể lớn và
quan trọng với khả năng mất nhiều máu và có biến chứng. Như là mổ
tim, cắt ung thư phổi…
-Tiểu giải phẫu, ít lan rộng (less
invasive), không liên can tới các bộ phận, ít chảy máu và biến chứng.
Chẳng hạn rạch u nhọt, khâu vết đứt trên da.
2-Tùy theo mục đích
-Để điều trị như là cắt bỏ một bộ phận
đă bị hư hao hoặc gây ra bệnh cho cơ thể.
-Để giảm dấu hiệu triệu chứng bệnh.
-Để tái tạo một bộ phận hoặc phần cơ thể
bị đổi h́nh dạng.
-Để chẩn đoán hoặc t́m nguyên nhân gây
bệnh.
-Để làm đẹp h́nh dáng.
3-Tùy theo t́nh trạng
bệnh
-Cấp cứu tức th́ (emergency), cần giải
phẫu ngay để cứu sống người bệnh. Chẳng hạn trong tai biến động mạch
năo do cục máu th́ phải giải phẫu ngay để loại bỏ nguyên nhân gây ra
tử vong tế bào năo bộ. Hoặc ruột dư cần giải phẫu ngay để tránh bể
vỡ, gây nhiễm trùng tổng quát.
-Khẩn cấp (urgent) giải phẫu càng sớm
càng tốt trong một khoảng thời gian nào đó
-Giải phẫu không cấp thiết (Elective
surgery), được dự trù trước, không có tính cách cấp cứu, thời gian
thực hiện tùy theo sự lựa chọn của bác sĩ và người bệnh. Thí dụ giải
phẫu sửa sa ruột (hernia), cắt bỏ túi mật (cholecystectomy), thay
khớp xương háng (hip replacement).
Giải phẫu thẩm mỹ với mục đích làm tăng
vẻ đẹp ngoại h́nh hoặc vị thế xă hội cũng thuộc loại này, tức là
không có mục tiêu trị liệu. Chẳng hạn tẩy nốt ruồi, xóa bỏ vết nhăn
trên mặt.
-Giải phẫu do y giới chỉ định
(Recommended surgery) có thể là khẩn cấp (ruột dư) hoặc cần thiết v́
nếu không thực hiện sẽ gây ra hậu quả trầm trọng.
Phương pháp giải phẫu
1-Phẫu thuật cổ điển
(Classic surgery)
Phương pháp thường được thực hiện qua
vết rạch trên da, thịt, rồi đi vào cơ quan bộ phận bị bệnh.
Phương pháp đă được áp dụng từ thuở xa
xưa và đă đóng góp rất nhiều trong việc trị bệnh, đặc biệt là khi
các phương thức khác thất bại. Tuy nhiên, phương pháp cũng có mấy
rủi ro, cần biết để pḥng tránh biến chứng trầm trọng, “lợn lành
chữa thành lợn què”. Chẳng hạn:
-Giải phẫu lớn thường cần gây mê để bệnh
nhân không cảm thấy đau. Nhưng gây mê mà không được theo dơi, thực
hiện chu đáo có thể khiến tim phổi ngưng hoạt động trong khi mổ.
-Mặc dù đă đề pḥng, nhiễm trùng vết mổ
hoặc sưng phổi là chuyện có thể xảy ra tại bệnh viện sau giải phẫu.
-Khi rạch mổ qua thịt da là phải có chảy
máu, vết mổ có thể lâu lành, để lại vết sẹo khó coi.
-Khó thở sau giải phẫu
-Tăng rủi ro tuần hoàn khi bệnh nhân có
bệnh tim mạch.
2-Giải phẫu với rất ít
xâm lấn (minimally invasive surgery)
Trong phẫu thuật này, vết cắt trên da
rất nhỏ, vừa đủ để đưa một bộ phận của dụng cụ giải phẫu vào cơ thể,
do đó bệnh nhân ít đau, vết thương mau lành, sẹo nhỏ, ít chẩy máu,
ít nhiễm trùng, biến chứng. Bệnh nhân có thể sớm rời bệnh viện và
trở lại sinh hoạt hàng ngày.
Một thí dụ là phép soi ổ bụng
(Laparoscopic surgery) để quan sát các cấu trúc trong ổ bụng như
noăn sào …. Một dụng cụ h́nh ống có đèn chiếu sáng được đưa vào một
vết rạch nhỏ trên thành bụng qua đó phẫu thuật được thực hiện.
Một trở ngại của phương pháp là khoảng
không gian mổ quá nhỏ khiến cho “đường dao” các thao tác của phẫu
thuật gia bị giới hạn. Tuy nhiên, trăm hay không bằng tay quen, phẫu
thuật gia kinh nghiệm vẫn có thể vượt qua.
3-Phẫu thuật không xâm
lấn (Non-Invasive Surgery)
Gọi là non-invasive có nghĩa là phẫu
thuật đi vào cơ thể mà không cần thông qua vết rạch trên da hoặc qua
các lỗ thiên nhiên như mũi, miệng, âm hộ, hậu môn…
Một thí dụ là dùng tia Laser để tiêu hủy
u bướu, mụn cóc, cục thịt non (mole), xóa vết nhăn da, tu sửa sự gồ
ghề của giác mạc…Phương pháp có thể thực hiện với gây tê tại chỗ
hoặc gây mê tổng quát.
3-Phẫu thuật không cần vết rạch trên da
(Incisionless Surgery) hoặc phẫu thuật qua lỗ thiên nhiên (Natural
Orifice Surgery)
Đây là một kỹ thuật tương đối mới mẻ, có
chiều hướng ngày càng được nhiều bác sĩ áp dụng.
Thủ thuật được thực hiện thông qua các
lỗ tự nhiên của cơ thể như miệng, âm hộ, dương vật, hậu môn…chứ
không qua vết rạch trên da. Phương pháp có vẻ « thần sầu, quỷ cốc »,
chẳng khác ông Tề Thiên Đại Thánh tàng h́nh chui vào lỗ mùi đối
phương, tới phổi tới tim mà đập phá, hủy hoại.
Một thí dụ :
Bệnh nhân cần cắt bỏ túi mật sẽ được
nuốt một dụng cụ tự động xuống thực quản rồi dạ dày. Tới đây người
máy đó sẽ được điều khiển để lách ḿnh ra khỏi dạ dày, ṃ mẫm tới
gan, làm công việc cắt bỏ túi mật rồi rút lui, an toàn trở ra khỏi
miệng sau khi đă tu sửa vết thương ở dạ dày. Phẫu thuật hoàn tất,
bệnh nhân không cảm thấy đau, ít chảy máu, nhiễm trùng, không có vết
trên da, về nhà hân hoan vui vẻ với gia đ́nh, nghỉ ngơi vài ngày rồi
tiếp tục « lao động vinh quang », kiếm gạo. Phẫu thuật gia với tay
nghề cao có thể điều khiển dụng cụ tự động đó một cách tuyệt hảo,
chẳng khác chi mổ từ ngoài, qua da thịt.
4-Phẫu thuật « rỏm »
(Sham Surgery)
Cũng như “thuốc vờ” (placebo medicine),
placebo surgery đôi khi cũng được áp dụng để làm giảm đau ở một bệnh
cứ than phiền mà mọi xét nghiệm không t́m ra bệnh. Chẳng hạn, kêu
đau đầu gối. X-quang, xét nghiệm đều b́nh thường. Bác sĩ bèn đưa lên
bàn mổ, gây mê, rạch da, loay hoay một lúc rồi đóng vết mổ, tuyên bố
kết quả. Vậy mà nhiều bệnh nhân thấy dễ chịu hơn.
Phương pháp thường được dùng để kiểm
chứng hiệu quả của vài kỹ thuật giải phẫu và cũng ân oán giang hồ
vài xét đoán coi xem có vi phạm về phương diện y đức.
Một vài thắc mắc
1-Tại sao nhịn ăn trước
khi mổ?
Phẫu thuật cần gây mê thường đưa tới nôn
mửa. Nếu bệnh nhân ói trên bàn mổ th́ chất ói có thể bị hút vào phổi,
gây rủi ro hô hấp, có thể chết người. V́ thế thường th́ không được
ăn thực phẩm đặc 8 giờ trước mổ hoặc nhâm nhi chút nước trước 4 giờ.
2-Nằm bệnh viện bao lâu
sau khi mổ?
Cách đây vài thập niên, sau một phẫu
thuật trung b́nh, bệnh nhân thường nằm lại bệnh viện có khi cả dăm
ba tuần lễ. Lư do là vết mổ lớn, kỹ thuật máy móc c̣n thô sơ, mất
máu nhiều, rủi ro nhiễm trùng cao…cho nên cần ở lại bệnh viện một
thời gian lâu hơn để hồi phục.
Ngày nay, dù là mổ tim, nối cầu động
mạch (coronary bypass), bệnh nhân có thể về nhà sau vài ngày. Đó là
nhờ kỹ thuật tân tiến, phương tiện hữu hiệu, chuyên viên được huấn
luyện tới nơi tới chốn. Ngoài ra, theo nhiều nghiên cứu, bệnh nhân
thưởng hồi phục mau hơn trong môi trường gia đ́nh, thoải mái với sự
chăm sóc, hiện diện của người thân.
Một lư do nằm viện ngắn hạn cũng v́ sự
tính toán lợi nhuận của các công ty bảo hiểm sức khỏe. Họ xét nét
theo rơi ấn định thời gian nằm viện ngơ hầu khỏi phải trả quá nhiều
tiền.
3-Làm sao lựa được nhà
giải phẫu đáng tin cậy?
Bác sĩ gia đ́nh là người hiểu rơ bệnh
trạng của ḿnh. Họ cũng là người mà ḿnh có thể nhờ chọn lựa phẫu
thuật gia thích hợp với nhu cầu. Chúng ta cũng có thể t́m hiểu thêm
về các nhà chuyên môn này qua danh sách phẫu thuật gia tại các bệnh
viện, các tổ chức bác sĩ giải phẫu.
Khi đă lựa được một bác sĩ đúng với nhu
cầu, nên hẹn ngày tới thăm, nhớ mang đầy đủ hồ sơ sức khỏe.
Thảo luận, t́m hiểu mọi thắc mắc về phẫu
thuật sẽ thực hiện, triển vọng lành bệnh, biến chứng hậu giải phẫu…
kể cả chi phí y vụ, bảo hiểm trả bao nhiêu và phần ḿnh chịu trách
nhiều hay ít.
Nếu chưa hoàn toàn thỏa măn, có thể lấy
ư kiến thứ hai (second opinion) với bác sĩ chuyên môn khác. Để bảo
đảm phẫu thuật là trị liệu cần thiết có nhiều khả năng giúp lành
bệnh. Tất nhiên là trong t́nh trạng cấp cứu, việc được giải phẫu
càng sớm càng tốt quan trọng hơn là tuyển chọn bác sĩ.
Kết luận
Từ xưa tới nay, giải phẫu với các chuyên
ngành nội khoa đều sánh vai để bảo vệ sức khỏe con người. Các bác sĩ
đều cố gắng mang khả năng ra để phục vụ bệnh nhân. V́ phúc chủ, lộc
thầy, đôi bên đều có phần lợi nhuận và cũng để khỏi đáo tụng đ́nh,
phân bua phải trái khi có sơ sót, lỗi lầm xảy ra.
Nhớ lại, đă có thời kỳ công lao của phẫu
thuật gia được bồi hoàn khá nghiêm minh, đôi khi hơi quá mạnh tay:
Nếu vị đó dùng dao chữa lành u mắt th́ được thưởng 10 quan tiền.
Nhưng nếu sơ ư, đường dao loạng quạng làm mù mắt bệnh nhân th́ những
ngón tay mổ bị cắt bỏ.
Ôn lại, thấy mà kinh. Nhưng cũng là bài
học tốt cho những “lang băm”, bằng giả.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức M.D.
Texas Hoa Kỳ tháng 7,2009
http://www.nguyenyduc.com
|