Câu Chuyện Thầy Lang: Những Giọt Mồ Hôi

Bác sĩ Nguyễn Ư Đức

- Tương truyền rằng Đường Minh Hoàng rất say mê Dương Quư Phi v́ sắc đẹp “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” của nàng. Đặc biệt hơn cả là v́ nàng tỏa ra một hương thơm qua những giọt mồ hôi từ phần thân ḿnh kín đáo. Theo các cung nữ, hương thơm này thường do người đẹp thưởng thức những trái lệ chi trồng ở đất Việt, mà Đầu phu Mai Thúc Loan phải ngày đêm ngàn dậm cùng đoàn tùy tùng mang sang cống hiến.
Đó là huyền thoại bên Tầu.
Bên Việt Nam ta, cũng có một ái phi triều Nguyễn với những hạt mồ hôi thơm nức. Một thi hữu ở Arizona kể cho hay ḍng họ Trần tại làng Tây Mỗ tỉnh Hà Đông có một thiếu nữ được tiến vô cung làm ái phi. Vị cung phi này được quân vương rất sủng ái v́ tính t́nh hiền hậu, đoan trang và nhất là mồ hôi bà có mùi hấp dẫn. Nên dân chúng địa phương có vần thơ ca tụng rằng:
“Họ Trần sinh một Đức Bà,
Mồ hôi thơm ngát, trăm hoa miệng cười”.
Dân gian ta thường nói:
“Quyên quyên ăn trái nhăn lồng,
Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi”
Bên Tây cũng có câu chuyện tương tự. Chuyện Đại Tướng Napoleon Bonaparte viết cho người yêu Josephine rằng:”Ḿnh ơi, anh về hôm nay, xin đừng tắm nhé. Nhất là đêm nay”. Th́ có lẽ tướng quân ta cảm thấy nhiều hứng t́nh hơn khi ngửi cái hơi từ người đẹp.
Mà cái hơi này phải chăng cũng từ những giọt mồ hôi của người yêu. Mà khi đă phải hơi nhau th́ mùi đó thơm hay không, cũng chẳng quan hệ. Có người ghiền rúc vào nách nhau để hít hà cái mùi nhiều khi khó ngửi của người t́nh mà đôi bên đă cùng nhau xa vắng lâu ngày.
Khoa học ngày nay nh́n sự đổ mồ hôi dưới góc cạnh thực tế hơn, ích lợi hơn cho sức khỏe. V́ sức khỏe là điều quan tâm lớn của mọi người, mọi sinh vật. Đó là vai tṛ điều ḥa thân nhiệt của sự đổ mồ hôi.

Sự Điều Ḥa Thân Nhiệt
Khi sinh ra, con người và một số động vật có vú đă được tạo hóa gắn cho một hệ thống rất tinh vi để điều ḥa và giữ nhiệt độ trong cơ thể b́nh thường dù có những thay đổi đột ngột từ chung quanh hay từ trong cơ thể. Do đó các động vật này được gọi là có máu ấm.C̣n động vật có máu lạnh như loài ḅ sát, cá, sâu bọ th́ nhiệt độ trong ḿnh thay đổi tùy theo nhiệt độ ở môi trường.
Nhiệt độ trong người thay đổi từ 36º2 C tới 37º6 C (97º F tới 100º F), trung b́nh là 98º 6 F hoặc 37ºC. Độ Fahreinheit được dùng ở Hoa Kỳ, c̣n đa số các nước khác trên thế giới dùng độ Celsius với 0º là nhiệt độ nước đá, 100º là nhiệt độ nước sôi. Khi nhiệt độ cơ thể lên quá mức trung b́nh này th́ sự sống có thể bị hiểm nguy, v́ một vài chức năng sinh tử trong cơ thể bị rối loạn.
Nhiệt độ lên xuống tùy thời gian: buổi sáng thấp v́ ta chưa ăn uống ǵ và mới thức dậy sau một đêm nghỉ ngơi; buổi chiều cao hơn v́ các hoạt động trong ngày và thực phẩm tiêu thụ đă sinh ra nhiều năng lượng. Ở người phụ nữ nhiệt độ lại thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt, và khi rụng trứng. Nhiệt độ đo ở nách thấp hơn ở miệng và miệng lại thấp hơn ở hậu môn.

Nhiệt độ trong người luôn luôn ở mức trung b́nh nhờ có sự thăng bằng giữa tạo ra nhiệt và phân tán nhiệt.
a-Sinh nhiệt.
Nguồn gốc tạo ra nhiệt là do sự chuyển hóa chất dinh dưỡng và trạng thái nghỉ ngơi hay hoạt động của các tế bào.
Khi không hoạt động, các cơ quan nội tạng sản xuất 50% nhiệt, năo bộ sinh ra 15%, cơ thịt cho 25% . Khi vận động th́ cơ thịt tạo ra một số lượng nhiệt cao gấp bội v́ có sự gia tăng phản ứng sinh hóa ở các tế bào này.
Sự sinh nhiệt cũng tăng khi ta tiêu thụ nhiều thực phẩm, khi tuổi lên cao và dưới tác dụng của vài kích thích tố như thyroxine của tuyến giáp trạng, adrénaline của nang thượng thận.

b- Giảm nhiệt
Để hạ nhiệt, cơ thể sử dụng bốn phương thức:
* Dẫn nhiệt (Conduction) trực tiếp từ cơ thể ra môi trường chung quanh như khi ta ngâm ḿnh trong nước lạnh, ngồi trên cây nước đá hoặc ở trong pḥng có máy điều ḥa không khí.
* Đối lưu (Convection) khi nhiệt tản đi theo không khí lưu chuyển, gió thổi. Gió làm giảm hiệu năng giữ nhiệt của lớp không khí dưới da và làm độ ẩm trên da bốc hơi mau. Bốc hơi làm nhiệt độ cơ thể giảm xuống.V́ thế khi mặc quần áo che kín th́ hơi nóng trong cơ thể bị giữ lại.
* Bức xạ (Radiation) khi hơi nóng mất đi dưới dạng những tia, nhưng nếu nhiệt độ chung quanh cao hơn th́ cơ thể lại thu nhiệt vào.
* Sự tán nhiệt nhiều nhất là bốc hơi (Evaporation) trên da (80%): nhiệt phân tán qua sự chuyển mồ hôi thành hơi nước bay đi. Phương thức này có vai tṛ rất quan trọng trong việc giảm sức nóng của cơ thể. Muốn cho sự bốc hơi được hữu hiệu, không khí phải khô v́ độ ẩm ngoài trời làm hiện tượng này chậm lại. Một giọt mổ hôi bay đi có thể làm giảm 1º F của một lít máu.
Ngoài ra, nhiệt c̣n mất đi qua hơi thở, bài tiết nước tiểu và phân hoặc khi con người kiếm chỗ mát để ngồi.
Chó mèo không đổ mồ hôi. Chúng giảm nhiệt trong cơ thể qua hơi thở, nước miếng hoặc thè lưỡi liếm lông. Liếm lông, nước miếng dính lên lông và bốc hơi, tán nhiệt.

Sự Đổ Mồ Hôi
Đổ mồ hôi là một hiện tượng sinh học tự nhiên và lành mạnh với nhiệm vụ quan trọng là giữ nhiệt độ cơ thể b́nh thường. Hệ thần kinh giao cảm nằm ở mặt trong của lồng ngực điều khiển sự hoạt động của các tuyến mồ hôi. Khi thần kinh này quá nhậy cảm th́ mồ hôi tiết ra nhiều. Đàn bà có nhiều tuyến mồ hơn đàn ông nhưng các ông lại sản xuất nhiều mồ hôi hơn quư bà v́ tuyến của họ hoạt động mạnh hơn. Ở người khỏe mạnh, mồ hôi thường toát ra khi ta làm việc lâu và mạnh; lao động trong môi trường không gió hoặc đi bộ giữa trưa Hè, thời tiết nóng nực.
Khi nhiệt độ trong cơ thể lên quá 37º C, các mạch máu ngoại vi mở rộng, chứa nhiều máu để đẩy bớt hơi nóng trong người ra ngoài rồi lưu hành trở lại với máu mát hơn. Nếu nhiệt độ không khí tiếp tục lên cao, sự thoát nhiệt qua máu không đủ và cơ thể phải tiết ra chất lỏng để tán nhiệt. Đó là sự đổ mồ hôi trên da. Trong một giờ, cơ thể có thể toát ra tới 1,5 lít mồ hôi. Nếu mồ hôi mất nhiều quá mà không được bù đắp th́ ta có thể sỉu, bất tỉnh v́ máu lưu thông tới các cơ quan giảm, nhất là hệ thần kinh.
Mồ hôi là chất nước trong không mầu, kiềm tính với 2% vật thể đặc. B́nh thường, mồ hôi gồm có nước, muối sodium chloride, potassium, urea.
Mồ hôi do tuyến mồ hôi tiết ra dưới sự điều khiển của hệ thần kinh tự chủ. Trung b́nh cơ thể có 2.6 triệu tuyến mồ hôi rải rác trên da, trừ môi, núm vú, phần cơ quan sinh dục nằm ở ngoài.
Có hai loại tuyến mồ hôi: tuyến tiết ra chất nước và tuyến tiết ra một lượng rất nhỏ dung dịch hơi đặc không mùi.
Tuyến nước (Eccrine gland) có khắp nơi kể cả ḷng bàn tay, gan bàn chân, trán.
Tuyến chất đặc (Apocrine gland) nhiều nhất là ở nơi da có lông như nách, háng, vùng cơ quan sinh dục. Các tuyến apocrine này phát triển trong nang lông và xuất hiện sau khi con người tới tuổi dậy th́. Chất lỏng của tuyến gồm có chất đạm, acít béo cho nên dung dịch có mầu vàng sữa.
Tuyến mồ hôi nằm dưới da, hút nước từ ḍng máu rồi chuyển chất lỏng ra mặt da. B́nh thường th́ các tuyến tái hấp thụ muối khoáng và đưa trở về mạch máu. Nhưng khi mồ hôi ra quá nhiều, tuyến không cáng đáng với nguồn chất lỏng lớn nên một số nhỏ muối thoát ra khỏi cơ thể.
Đông y coi Đổ Mồ Hôi như một h́nh thức trị bệnh để loại trừ một số tác nhân độc hại xâm nhập cơ thể. Gây đổ mồ hôi là một trong ba phương thức trị bệnh cổ truyền: Gây ói, gây xổ và gây đổ mồ hôi. Cạo gió bằng dầu nóng, đánh cảm với cám rang là để ra mồ hôi, xông với lá Hương Nhu làm nhẹ vài bệnh nóng sốt. Và ngày nay người ta tắm hơi, ngồi sauna cũng cùng mục đích để toát mồ hôi. Cho người thư dăn, sảng khoái và cũng để nhẹ bớt mấy cân của tấm thân hơi bồ sứt cạp.
Nhưng mồ hôi nhiều ít cũng đưa tới một vài khó chịu cho cơ thể, đôi khi bệnh hoạn.

Nhiều mồ hôi
B́nh thường cơ thể tiết mồ hôi khi:
*-Thời tiết nóng nắng, thân nhiệt tăng th́ mồ hôi tự nhiên đổ ra để hạ nhiệt độ cơ thể. Mỗi người có thể tiết ra tới 1 lít 50 mồ hôi trong một giờ đôi khi tới 3,5 lít.
*-Vận động cơ thể, làm việc chân tay trong khí hậu 85º và 40% độ ẩm, ta tiết ra trung b́nh là ½ lít mồ hôi trong một giờ. Khi mất chất lỏng như vậy th́ máu ta sẽ đặc hơn, tim sẽ phải làm cố gắng làm việc hơn để đẩy máu ra và ta cảm thấy hơi mệt. Để tránh khó khăn: trước khi tập hoặc làm việc ngoài trời, nên uống khoảng hai ly nước trước khi tập; trong khi tập th́ uống nửa ly cho mỗi lần tập kéo dài 20 phút
Ngoài ra một số yếu tố khác cũng đưa tới chứng Tăng Tiết Mồ Hôi (Hyperhidrosis) dù thân nhiệt b́nh thường hoặc khi nghỉ ngơi:
*-Khi có nhiều đau đớn, sợ hăi, xúc động hoặc căng thẳng ( sợ toát mồ hôi hột); mồ hôi ra nhiều nhất là ở trên mặt, nách, ḷng bàn tay bàn chân.
*-Đôi khi mồ hôi cũng tiết ra khi ta tiêu thụ một vài gia vị cay, uống nước nóng hoặc nước có caffeine hoặc khi uống nhiều rượu.
*-Một vài loại thuốc như thuốc trị bệnh tâm thần haldol, kích thích tố tuyến giáp, morphine, aspirin, acetaminophen, cocaine;
*-Bệnh gan, bệnh khí thũng phổi (emphysema), bệnh Parkinson, hội chứng suy yếu dây thần kinh ngoại vi Guillain-Barre;
*-Một số người đổ mồ hôi theo di truyền đặc biệt là ở ḷng bàn tay, bàn chân.
*-Phụ nữ trong thời kỳ măn kinh với nóng phừng mặt, đổ mồ hôi v́ kích thích tố nữ giảm;
*-Bệnh nhân tiểu đường điều trị bằng insulin khi đường huyết xuống quá thấp cũng đổ mồ hôi, run rẩy tay chân, yếu sức, chóng mặt, buồn nôn. Người tiểu đường mồ hôi có mùi chua như trái cây hư;
*-Cường tuyến giáp với nhiều kích thích tố của tuyến này khiến cơ thể nóng bừng, mồ hôi tiết ra;
*-Trong cơn Suy Tim Heart attack, bệnh nhân thấy đau ngực, khó thở, đổ mồ hôi đầm đ́a; trong tai biến năo với tổn thương trung tâm điều ḥa nhiệt độ ở năo
*-Trong các bệnh nhiễm như Lao, sốt rét ngă nước bệnh nhân cũng đổ nhiều mồ hôi với nhiệt độ lên cao.
*-Bệnh ung thư bạch cầu hoặc u hạch bạch huyết lymphoma với mất cân, sốt, đỗ mổ hôi;
*-Rối loạn tự miễn như trong các bệnh viêm thấp khớp (rheumatoid arthritis) hoặc lupus ban đỏ (Systemic lupus erythematosus)

Một vài trường hợp đáng chú ư:
*Nhiều mồ hôi bàn tay:
Đây là h́nh thức thường thấy và cũng gây khó chịu nhiều nhất. Bàn tay người bệnh luôn luôn nhơm nhớp ẩm ướt và lạnh. Họ thường xuyên phải lau tay, tránh bắt tay người khác, gặp trở ngại khi đánh máy chữ hoặc chơn tay khi muốn cầm vật dụng hoặc khó khăn vẽ lông mày, tô môi son. Nhiều người ngại ngùng trong giao tế đôi khi trở nên cô lập. Và càng bối rối, xúc động th́ mồ hôi lại càng ra nhiều.

*Nhiều mồ hôi bàn chân.
Tuy không lộ liễu như nhiều mồ hôi tay nhưng nhiều mồ hôi chân là môi trường thuận lợi cho các bệnh nấm và vi khuẩn phát triển, đưa tới bệnh nhiễm bàn chân (Athlete’s Foot), viêm nhiễm móng chân, đi giầy và tất khó khăn mà đi dép th́ hay tượt.

*Nhiều mồ hôi nách cũng là một trở ngại giao tế v́ mảnh áo nơi đây hoặc ướt sũng nước hoặc hoen ố muối mặn với mùi hôi hôi, khó chịu.

*Đổ mồ hôi mặt, cổ, da đầu cũng thường xẩy ra khi đang ăn uống, nói trước công chúng hoặc gặp đám đông người v́ xúc động, lo sợ.

Không có mồ hôi
Sự đổ mồ hôi bị gián đoạn hoặc trở ngại dưới tác dụng của vài loại thuốc thần kinh; trong bệnh di truyền không có tuyến mồ hôi; khi có tồn thương thần kinh tự chủ điều khiển tuyến mồ hôi; khi có nhiễm trùng tuyến mồ hôi; phỏng da nặng; khi cơ thể khô nước v́ ói mửa, đi tiêu chẩy và khi bị trúng thử heat stroke.
Không mồ hôi gây trở ngại cho sự thoát nhiệt của cơ thể và đưa tới rủi ro nghiêm trọng như trong trường hợp bị trúng thử, làm việc, vận động cơ thể hoặc đi trong nắng gắt mà không uống nước đầy đủ. Nhiệt độ trong người lên rất cao, da khô, cơ thể suy nhược và có thể bị hôn mê.
Năm 2003, cả mấy trăm dân chúng thành phố Ba Lê thiệt mạng v́ thời tiết nóng nắng quá mức. Người cao tuổi và trẻ em là dễ bị tai nạn này lắm. Kinh nghiệm người lái xe khi ngoài trời quá nóng th́ cảm thấy uể oải, mệt ṃi, buồn ngủ nên dễ xẩy ra tai nạn.

Nói tới mồ hôi th́ cũng nên nói qua tới mùi của mồ hôi.
B́nh thường mồ hôi không có mùi, vị hơi mặn v́ có muối khoáng. Mồ hôi có mùi là do tác dụng của các vi sinh vật lên mồ hôi mỡ lẫn chất đạm do các tuyến apocrine tiết ra. Như đă nói ở trên, các tuyến này chỉ xuất hiện ở tuổi dậy th́ và có ít đi ở tuổi măn kinh. Không giống như tuyến eccrine có ở khắp cơ thể, tuyến này lại có nhiều ở nách, bẹn, quanh cơ quan sinh dục và hậu môn, quanh núm vú. Mà những nơi này nhiệt độ thường cao, bí hơi, ẩm ướt, có nhiều lông và là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn, nấm độc trú ẩn. Vi khuẩn tác dụng lên chất béo chát đạm của mồ hôi và tạo ra mùi ngạt mũi, khó chịu. Và ta có hôi nách, mồ hôi khan thum thủm ở phần kín cơ thể, mồ hôi mầu thấm vào quần áo, mồ hôi khai ở lông và tóc.
Ngoài ra cơ thể cũng toát ra mùi qua hơi thở, các chất phế thải như phẩn và nước tiểu; trong một số bệnh kinh niên. Bệnh nhân tiểu đường có hơi thở mùi trái cây hư v́ hóa chất acetone trong máu lên cao; mồ hôi mùi chuột chết ở bệnh thận trầm trọng; mùi hôi của tế bào hủy hoại khi nhiễm trùng ngoài da, cơ thịt.
Điều trị
Nhiều người rất khó chịu, đôi khi bối rối v́ đổ mồ hôi quá nhiều nhất là ở nơi dễ thấy như ḷng bàn tay, nách. Bắt tay nhau mà tay ướt sũng th́ cũng ngượng ngùng mà chiếc áo lụa Hà Đông mới mua, nách áo vàng khè th́ cũng khó coi lại tiếc chiếc áo đẹp. Cho nên trên thị trường có nhiều thuốc bán không cần toa để công chúng tiện dụng và khá công hiệu. Thuốc có thể là bôi thoa để chặn mồ hôi chẩy ra và đa số có chất căn bản Aluminum Chloride Hexahydrate.Thuốc được bôi dăm lần một tuần, vào buổi tối. Khi bớt mồ hôi th́ bôi tuần một lần. Điều đáng lưu ư là tác dụng của aluminum không kéo dài lâu và sau đó mồ hôi có thể ra nhiều hơn.
Cũng nên phân biệt thuốc chống tiết mồ hôi (antiperspirant) và chống mùi hôi (deodorant). Trong deodorant có kháng sinh để diệt vi khuẩn tác dụng lên chất đạm của mồ hôi và gây ra mùi khó ngửi. Đồng thời cũng có chất làm át mùi hôi. Thuốc antiperspirant tạo cái nút bít tuyến không cho mồ hôi tiết ra
Trường hợp khó hơn th́ nên đi khám bác sĩ để t́m hiểu nguyên nhân và được điều trị thích đáng.
Thuốc anticholinergic như loại glycopyrrolate (Robinul, Robinul-Forte) chặn tác dụng gây đổ mồ hôi của acetylcholine.
Thuốc trấn an tâm thần, tâm lư trị liệu đôi khi cũng được dùng nếu nguyên nhân đổ mồ hôi là những xúc động, căng thẳng tinh thần.
Mới đây, độc tố botulinum (Botox) đă được chích để chặn dây thần kích thích tuyến mồ hôi. Thuốc có công hiệu khoảng 4 tháng sau đó phải chích lại.
Giải phẫu cắt bỏ tuyến mồ hôi hoặc cắt bỏ dây thần kinh kích thích tuyến này cũng được dùng khi mồ hôi ra nhiều ở nách, bàn tay. Trước đây, để cắt bỏ dây thần kinh phải mở rộng lồng ngực. Bây giờ với phương pháp nội soi, giải phẫu giản dị hơn nhiều và bệnh nhân chỉ cần nằm nhà thương từ 12 đến 24 giờ.
Phương pháp kích thích bằng ḍng điện (Iontopheresis): bệnh nhân nhúng tay vào chậu nước với một ḍng điện cường độ nhẹ chạy qua, làm tuyến mồ hôi tê liệt và không tiết mồ hôi khoảng một tuần lễ.
Kinh nghiệm cổ truyền ta chữa trẻ em đổ mồ hôi trộm bằng nước lá hẹ nấu chín hoặc hạt tiêu mạch lép sắc với hồng táo uống thay trà. Hải Thượng Lăn Ông có bài thuốc trị mồ trộm với nhân sâm, phục linh, toan táo tán thành bột. Đổ mồ hôi chân th́ các cụ ngâm chân bằng nước trà ấm với một chút muối thô hoặc nửa tách giấm chua. Tiểu thư khuê các Trung Hoa khi xưa bó bàn chân trong mảnh vải cho thon nhỏ th́ chân có mùi hôi rất khó chịu. Họ thường xức loại nước gọi là Hương Liên Táo. Mồ hôi nách khó chịu th́ rang hàn the, tán thành bột rổi rắc vào nách.
Ngoài ra cũng nên giữ vệ sinh cá nhân, tắm rửa thường xuyên; giữ bàn chân khô ráo, thay tất mỗi ngày, đi giầy thông hơi; tránh mặc quần áo làm bằng sợi hóa chất bí hơi; tránh thực phẩm gây đổ mồ hôi; uống nhiều nước; tập cơ thể khi trời mát; giữ đường huyết ở mức b́nh thường; nơi ở thoáng khí với quạt hoặc máy lạnh. Trong túi luôn luôn có cuộn giấy mỏng để kín đáo thấm mồ hôi trước khi tay bắt mặt mừng hoặc mang đôi bao tay bằng sợi bông g̣n thấm nước.

Và nên tham khảo ư kiến bác sĩ ngay khi nào thấy:
*Đồ mô hôi lâu, nhiều mà không có nguyên do;
*Đổ mồ hôi với đau thắt ngực;
*Đổ mồ hôi ban đêm với mất kư.
Đề được điều trị tới nơi tới chốn những nguyên nhân đưa tới các bệnh có triệu chứng tiết mồ hôi quá nhiều.


Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
Texas- Hoa Kỳ