|
Người
Mỹ gốc Việt: Bộ mặt tích cực
nhất từ cuộc chiến Việt nam Bài
Tham Luận của Hội Bảo Tồn Di Sản
Văn Hoá Của Người Mỹ Gốc
Việt Do
Bác sĩ Nguyễn Ư Đức tŕnh Bày tại Cuộc
Hội thảo về Chiến Tranh Việt Nam
lần thứ 5 Do
Trường Đại Học Kỹ Thuật
Texas-Lubbock tổ chức Ngày
17-20 tháng 3 năm 2005 Năm
1972 đă có những cuộc thảo luận gay
go giữa các phía liên hệ trong cuộc chiến
Việt nam về h́nh thức cái bàn sẽ
được dùng trong Hoà đàm Ba Lê, một
hội nghị đă được triệu
tập với cố gắng chấm dứt
một cuộc chiến quá dài và hao tốn cho
tất cả mọi phía. Các đề nghị
đi từ bàn 2 bên, rồi 4 bên, để
rồi kết thúc với cái bàn h́nh bầu
dục. Lư do của vấn đề là tất
cả các phe tham dự đều muốn
được nh́n nhận rằng ḿnh là một
trong những thành viên chính và quyền lợi
của ḿnh phải được bàn tới trong
cuộc thương thuyết. Vấn đề
nữa được đặt ra ở đây là:
ai thực sự tham chiến với ai? Phải chăng
đây là cuộc chiến tranh giữa Mỹ
với Bắc Việt? Hay là cuộc chiến
của Cộng Hoà miền Nam với Bắc
Việt với sự giúp đỡ của người
Mỹ? Thêm vào đó, Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam Việt nam đóng vai tṛ ǵ trong
cuộc chiến này?. Tổ chức này có
phải là con múa rối của Bắc Việt không?
Hay là một lực lượng độc
lập? Lúc bấy giờ, những cố gắng
để thỏa măn các yêu sách về cái bàn xem
như buồn cười và vô bổ, nhưng nó
nói lên sự khó khăn để dung hoà mọi
phía trong cuộc chiến. Cuối cùng, Hiệp
ước Paris đă đem lại cho người
Mỹ một lối thoát cho cuộc phiêu lưu
quân sự tại VN, hiệp ước này cũng
đă quyết định số phận của
đồng minh Nam Việt nam, và bảo đảm
cho sự chiến thắng vô nghĩa của
miền Bắc Việt nam. Nh́n lại quá khứ
với một nhận định b́nh tĩnh và
chín chắn hơn, Hiệp định Ba Lê đánh
dấu việc chấm dứt một giai đoạn
đau thương và quá nhiều tổn thất
cho tất cả mọi phía trong một cuộc
chiến như một cơn ác mộng. Bỏ qua
một bên những hậu quả tiêu cực, bài
tham luận nầy nhắm mục đích nói lên
phần tích cực của cuộc chiến
Việt Nam. Phần tích cực này đă đem
lại niềm hy vọng và tin tưởng vào
sự tự do và ḷng nhân đạo. Kết
quả tích cực đó chính là sự hiện
diện và lớn mạnh của Cộng Đồng
Tị Nạn Việt Nam và sự hội nhập
của họ vào các quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là nhóm người
Mỹ Gốc Việt.
Không
có kẻ chiến thắng trong cuộc chiến
Việt nam Dù
theo bất kỳ phe nào, theo thiển ư của chúng
tôi, th́ cũng không có kẻ chiến thắng
trong cuộc chiến Việt nam: Nước
Mỹ mất hơn 50,000 mạng người, hàng
nhiều tỷ mỹ kim, mất đi uy tín
từng là một đồng minh đáng tin
cậy, và sự đoàn kết của xă hội
Hoa kỳ trong nhiều thập niên
Tổ chức gọi là Mặt Trận
Giải phóng Miền Nam, do Bắc Việt lập
nên, tuyên bố là kẻ thắng, đă bị
thiệt hại hàng trăm ngàn người.
Mặt Trận này đă bị buộc phải
giải tán hoàn toàn một năm sau khi chiến
tranh chấm dứt. Một số ít các lănh
tụ của Mặt Trận c̣n được có
mặt trong chính quyền CS hiện nay nhưng
với những chức vụ không quan trọng,
số c̣n lại, th́ biến mất khỏi chính
trường. Bắc Việt, tuyên bố ḿnh cũng
là kẻ thắng trận, bị mất hơn
một triệu người. Sự chiến
thắng vô nghĩa này chỉ đem lại
quyền hành và lợi lộc cho một thiểu
số trong nội bộ đảng Cộng
sản. Các lănh tụ của họ trở nên giàu
có và đầy quyền lực, nhưng đa
số 80 triệu dân Việt nam th́ sống trong
đói nghèo và tương lai vô vọng. Lợi
tức trung b́nh đầu người ở
Việt nam là 220 mỹ kim một năm và sự
chênh lệch về lợi tức đă lớn c̣n
đang lớn thêm hơn nữa. Thêm vào đó,
việc hệ thống cộng sản quốc
tế sụp đổ ở Nga và các nước
Đông Âu, sự thất bại của nền
kinh tế ở Việt nam khiến cho Cộng
sản Việt nam phải ngă quỵ. Theo một
bản báo cáo của LHQ, từ năm 1983 tới
năm 1985, Việt nam có một nạn đói, không
được báo cáo, làm cho hàng ngàn người
chết, nhứt là dân chúng vùng thôn quê. Điều
đó xảy ra v́ chính phủ VN ban hành một
số chính sách sai lầm khiến cho cả nước
phải bước tới ngưởng cửa
của nạn đói. Một trong những chính sách
đáng được chú ư nhứt là việc
hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam. Chính
sách đó đă đem đến một thất
bại năo nề mà kết quả là sự thu
hoạch về lúa mùa đă sút giảm một cách
thảm hại.
Trong
cuộc chiến tranh vừa qua, Cộng Hoà Nam
Việt nam cũng bị mất trên 200.000 nam
nữ quân nhân, mất hoàn toàn bộ máy chính
quyền, mất tự do, mất nền kinh
tế, giáo dục, tài chánh, hệ thống
truyền thông, văn hoá và cả tự do tôn giáo.
Các yếu tố quan trọng đó trong đời
sống của họ đă bị tước
đoạt hoặc biến thành bất hợp pháp.
Hàng ngàn quân nhân miền Nam, nhân viên chính
phủ, các phần tử đối lập
với cộng sản và nhiều công dân vô
tội bị giam giữ hàng chục năm.
Nhiều người trong số đó đă
chết trong tù v́ bị thiếu ăn, bị tra
tấn, hay v́ bị thiếu thuốc men. Bộ
mặt tích cực nhất của cuộc
chiến Việt nam
Sau
cuộc chiến, theo ư chúng tôi, chỉ có một
nhóm người Việt trở thành yếu
tố tích cực: đó là những Người
Mỹ Gốc Việt (và các cộng đồng
người Việt khác trong thế giới
tự do). Sau
khi Saigon thất thủ vào tháng 4 năm 1975, Hoa
kỳ đă đưa bàn tay nhân ái, đón
nhận hàng ngàn người tị nạn
Việt nam như những công dân của quốc
gia vĩ đại nầy. Từ năm 1975, con
số người tị nạn Việt nam đă
tăng lên một cách nhanh chóng, tăng tới
150% trong hai thập niên 80 và 90. Theo cuộc
Kiểm Tra Dân Số năm 2000 th́ số người
Việt sinh sống ở Hoa kỳ lên tới
1,122,528 người, sau người Trung Hoa
(2,400,000) Phi (1,800,000) và Ấn độ (1,600, 000)
và trên người Đại Hàn (1,000.000).
Một cuộc t́m hiểu mới đây của
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho thấy một con
số cao hơn nhiều (2,200,000). Với con
số nầy, người Mỹ gốc Việt
đứng vào hàng thứ tư trong số các
sắc dân thiểu số tại Hoa kỳ. Hơn
nửa dân số này sống tập trung tại các
tiểu bang California, Texas, Louisana và Maryland. Ḷng
can đảm: “Tự do hay là chết”
Ban
đầu, người Mỹ gốc Việt
bỏ quê cha đất tổ ra đi sau khi quân
đội cộng sản Bắc Việt xâm
chiếm hết miền Nam năm 1975. Các phương
tiện di tản của họ gồm những
chiếc ghe chài nhỏ vượt biển hay
đi bộ qua những chiến trường
đẳm máu ở Cao Mên và Lào vào những năm
1978 tới 1995. Sau đó, một số người
khác đến Hoa Kỳ tỵ nạn qua các chương
tŕnh của chính phủ Hoa kỳ lập nên, sau
khi họ thấy được những thảm
cảnh của hàng ngàn người chết trên
biển cả hay trong rừng sâu ở Cao Miên, Lào
và Thái Lan. Những
người Việt cương quyết đi t́m
tự do và để tránh sự đàn áp chính
trị bằng nhiều đợt. Trước
năm 1975, chỉ có mấy ngàn người
Việt nam sinh sống ở Hoa kỳ. Phần
lớn những người đó là vợ
của nhân viên người Mỹ hay quân nhân
Mỹ phục vụ ở Việt nam, sinh viên
Việt Nam du học hay nhân viên của ngoại
giao đoàn. Từ năm 1978 tới 1982, một phong trào đàn áp của chính quyền Cộng sản đối với người Việt gốc Hoa, đă gây ra một đợt người tị nạn khác. Đợt nầy gồm có người Việt và người Việt gốc Hoa. Họ đă ra đi bằng thuyền bè đủ cở. Họ được gọi là “thuyền nhân”. Họ sẵn sàng đem mạng sống của ḿnh để đổi lấy tự do. Khẩu hiệu của họ là “Tự do hay là chết”. Họ trốn đi với niềm hy vọng tới được bến bờ các quốc gia lân cận, như Phi Luật Tân, Mă Lai, Hong Kong, Thái Lan hay Tân Gia Ba để sinh tồn, nhưng một số đông đă phải hy sinh. Nhiều người không sống được cho tới khi thấy được bến bờ tự do. Nhiều gia đ́nh đă bị băo táp cuốn trôi, làm mồi cho cá mập hoặc bị hải tặc hăm hiếp và giết chết. Theo các con số ước tính của Cao Ủy Tị Nạn th́ con số người chạy trốn bị chết như thế lên tới 700.000 người. Một
khi tới được đất liền,
những người sống sót được
đưa tới các trại tị nạn để
sống những ngày đầy thiếu thốn và
lo âu để chờ được chấp
nhận tới định cư ở đệ
tam quốc gia. Số người nầy lên
tới khoảng 500.000 người Ḷng
quảng đại và T́nh thương
mệt mỏi Cuộc
di tản kinh hoàng chưa từng có này đă
trở thành một mối lo cho quốc tế.
Nhiều quốc gia ở Á châu, giúp đỡ người
tị nạn trong khi họ chờ đợi
được định cư tại một
quốc gia chấp nhận họ, đă bày
tỏ sự mệt mỏi trong việc giải
quyết cho một số lớn người
tị nạn Việt nam. Chánh phủ Hoa Kỳ,
Tổ Chức Liên Hiệp Quốc và nhiều
quốc gia khác đă có những cuộc thảo
luận đa phương để đưa ra
những chương tŕnh nhân đạo như chương
tŕnh “Ra đi trong trật tự”(Orderly
Departure), “Luật đưa các trẻ Mỹ Lai
về Mỹ”(Home Coming Act), chương tŕnh
định cư trẻ em không có cha mẹ
(Program for Unaccompagned Children), và Chương tŕnh nhân
đạo cho các cựu tù nhân chính trị (HO).
Từ đó, người tị nạn có cơ
hội định cư ở Hoa kỳ theo
diện đoàn tụ gia đ́nh hay tị nạn
chính trị. Nhóm
sau cùng kể trên gồm có trên 300,000 người
được gọi là HO (Humanitarian Operation). Năm
1988, TT Ronald Reagan đích thân kư sắc lịnh cho
phép mọi cựu tù nhân chính trị bị
cộng sản bắt giam hay tập trung cải
tạo từ 3 năm trở lên ở Việt Nam
sẽ đủ điều kiện xin định
cư vào Mỹ. Nhóm nầy gồm có quân nhân và
công chức Việt nam ở mọi cấp
bực, bị tù đầy sau khi miền Nam rơi
vào tay Cộng sản. Tùy theo cấp bực và
chức vụ cũ, họ bị bắt cầm tù
từ vài ba tháng tới 15 năm. Họ bị
cầm tù trong các trại giam rải rác trong toàn
lănh thổ VN. Họ bị kiểm soát chặt
chẽ và thường khi bị tra tấn. Sau
mỗi ngày làm lao động cực nhọc,
họ c̣n phải thức đêm để
học những bài học “cải tạo”
về chủ nghĩa Mác-Lê để gọi là
gột rữa những“cặn bă đế
quốc”. Theo ước lương từ
nhiều cuộc nghiên cứu đứng đắn
th́ có khoảng 65,000 người bị hạ sát
v́ lư do chính trị giữa những năm 1975 và
1993. Những
góp đóng của Người Mỹ gốc
Việt Sự
đóng góp của người Mỹ gốc
Việt vào nước Mỹ không phải chỉ
gồm có số dân. Giống như những người
nhập cư từ trước, người
Mỹ gốc Việt không những đă vượt
qua được những kinh nghiệm đau thương
của kẻ mới lập nghiệp, họ c̣n
vận dụng được nền văn hoá
phong phú và sự siêng năng làm việc của
họ để thực hiện giấc mơ như
mọi người Mỹ khác. Trong thập niên
đầu tiên, biết bao nhiêu câu chuyện gây
cho nhiều người bản xứ phải chú
tâm về những khó khăn mà người
Việt tị nạn phải trải qua để
vượt qua các khác biệt về ngôn ngữ và
văn hoá. Hôm nay, mặc dù cuộc tranh đấu
của người Mỹ gốc Việt để
hội nhập vào xă hội Hoa kỳ vẫn
tiếp tục, câu chuyện về những kinh
nghiệm của người Mỹ gốc
Việt đang tràn đầy với những thành
công. Xin
nêu ra một số ít ví dụ:
-
Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, người
phát minh bom tầm nhiệt, giúp cho quân đội
Hoa kỳ chiến thắng ở Afghanistan thuyền
con thoi Columbia
- Luật sư Đinh Việt, giữ
chức vụ phụ tá bộ trưởng Tư
pháp Hoa kỳ trong nội các đầu tiên
của Tổng Thống George W. Bush
-
Giáo sư Trương Hồng Sơn, một trong
những nhà khoa học được kính
trọng hàng đầu trong
cơ quan NASA.
Người
ta có thể tiếp tục kể thêm, thêm
nhiều hơn nữa về những thành tựu
của người Mỹ gốc Việt. Đối
với người Mỹ gốc Việt, làm
việc chăm chỉ và thành công là một phương
cách để tỏ ḷng biết ơn nhân dân
Mỹ đă bảo bọc họ như những
thành viên thực sự trong gia đ́nh người
Mỹ. Người Mỹ gốc Việt đă có
những cố gắng để đóng góp
về mọi phương diện vào xă hội
Mỹ. Từ kinh tế cho tới giáo dục,
từ văn hóa cho tới nghệ thuật,
thể thao, người Mỹ gốc Việt
đă ghi dấu chân của ḿnh và đă gây
được những ảnh hưởng tích
cực trong mảnh đất Hoa kỳ. Người
Mỹ gốc Việt cũng đang góp tích
cực trong trận chiến ở Iraq. Và, c̣n
nhiều người Mỹ gốc Việt trong
lực lượng quân sự Hoa kỳ đang
bảo vệ tự do tại các tuyến đầu
ở Iraq, Afghanistan và tại nhiều nơi khác
trên thế giới. Họ cùng hưởng sự
vinh quang, phồn thịnh và cùng chia xẻ các gánh
nặng và trách nhiệm của Hoa kỳ trên
thế giới. Sự thành công của người Mỹ gốc Việt cũng c̣n đem lại lợi ích cho Việt nam. Người Mỹ gốc Việt mỗi năm đă góp phần từ 5 tới 8 tỷ mỹ kim cho nền kinh tế Việt nam. Trong khi sống một một đời sống thoải mái,, tự do ở Hoa kỳ, người Mỹ gốc Việt vẫn nặng ḷng với những người thân c̣n kẹt lại tai VN, họ đă gởi về VN qua đường chính thức cho những người thân hơn 3 tỷ mỹ kim mỗi năm qua các cơ sở tài chánh và ngân hàng. Việc đầu tư của người Mỹ gốc Việt c̣n ít – khoảng 200 triệu mỗi năm – so với khả năng của họ tới 22 tỷ mỹ kim một năm. Lư do của sự chênh lệch đó là các điều kiện nhân quyền ở Việt nam. Phần lớn các nhân quyền căn bản như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội, v.v... vẫn bị từ chối đối với đại đa số người Việt nam. Thêm vào đó, sự cạnh tranh không b́nh đẳng giữa các công ty chính phủ và công ty tư nhân làm cho việc đầu tư của tư nhân gần như không thể nào thành công được. Trên tất cả những lư do vừa kể trên, các chính sách bất nhất và thiếu chân thành của chính phủ Việt nam dành cho người Mỹ gốc Việt là những trở ngại lớn nhất cho việc người Mỹ gốc Việt không mấy thích thú đầu tư tại Việt nam. Trong
quá khứ, chính phủ Cộng sản Việt nam
đă gọi người Mỹ gốc Việt
với những hỗn danh như:
“ kẻ phản bội ” hay “kẻ
tội đồ”. Ngày nay, với sự thành công
về kinh tế của họ, người Mỹ
gốc Việt đối với chính quyền
CSVN, đă trở thành “người yêu nước”
hay “nắm ruột ở phương xa”. Dù có
được mệnh danh là ǵ chăng nữa,
th́ lợi tức hàng năm của 2 triệu người
Mỹ gốc Việt cũng tương
đương với lợi tức quốc gia hàng
năm của Việt nam với dân số 80
triệu người. Nói đến sự
kiện đáng buồn này không phải để
đề cao thành quả của người
Mỹ gốc Việt, mà chỉ muốn chứng
tỏ sự khác biệt giữa một xă
hội tư do và một xă hội bị áp
bức và các ảnh hưởng của nó đối
với đời sống và và khả năng thăng
tiến của công dân trong các xă hội đó. Các
thế hệ trẻ người Mỹ gốc
Việt c̣n có học vấn cao và có nhiều kinh
nghiệm trong nhiều địa hạt và kỹ
nghệ quan trong Những kiến thức và tài năng
đó nếu đưa về được
Việt nam, sẽ không chỉ giúp Việt nam
hội nhập nền kinh tế thế giới mà
c̣n hy vọng đẩy Việt nam tiến
tới một đất nước tự do và
trù phú. Bảo
tồn lịch sử Năm
nay, trong khi mừng kỷ niệm 30 năm tự
do của 2 triệu người Mỹ gốc
Việt cũng như các người Việt
tỵ nạn khác, chúng ta cũng nh́n lại 30 năm
lịch sử để tạ ơn các cố
gắng, những hy sinh và các thành quả của
thế hệ thứ nhứt của người
Mỹ gốc Việt. Chúng ta phải hănh diện
mà nói rằng lịch sử của người
Mỹ gốc Việt là lịch sử của ḷng
can đảm, sự kiên tâm và đầy
những thành quả. Chúng ta muốn bảo
tồn di sản lịch sử nầy cho các
thế hệ trẻ của người Mỹ
gốc Việt. hôn nay và mai sau. Hội
Bảo Tồn Di Sản Văn Hoá Người
Mỹ Gốc Việt đă thu thập được
hơn 200,000 trang tài liệu về người
Việt tỵ nạn. Các tài liệu này đă
được hội viên của hội và
nhiều cá nhân trong cộng đồng người
Mỹ gốc Việt gởi tặng. Có hàng
chục ngàn trang tài liệu, thư từ, h́nh
ảnh liên quan tới cuộc di tản chính
trị của người Việt Nam. Có hàng ngàn
trang tài liệu ghi lại các kinh nghiệm của
thuyền nhân trốn đi dưới sự
kiểm soát của chính phủ Cộng sản
Việt nam và việc họ đối phó với
các hiểm nguy của biển cả và hải
tặc. Cũng có hàng ngàn trang khác nói về
cuộc sống trong các trại tù Cộng
sản, hàng ngàn trang ghi lại những cố
gắng vận động với các nhà lập
pháp, hành pháp và các cơ quan khác của chính
phủ Hoa Kỳ, cũng như với chính
phủ Việt nam với hy vọng đem lại
được tự do cho người dân
Việt nam bị áp bức. Trong nhiều trường
hợp. những cố gắng này vẫn c̣n
đang tiếp tục. Kết
luận Trong
tinh thần cuả những cố gắng kể
trên, Hội Bảo Tồn Di Sản Văn Hoá Người
Mỹ Gốc Việt trân trọng thông báo
rằng Trung Tâm Việt Nam của trường
Đại học Kỹ thuật Lubbock, Texas, đang
tiếp tay với Hội trong việc thiết
lập một thư viện về lịch sử
người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi hy
vọng rằng bằng thư viện nầy và
với sự hỗ trợ của Trung Tâm
Việt Nam, những câu chuyện độc đáo,
và lịch sử hào hùng của người
Mỹ gốc Việt chúng ta sẽ được
bảo tồn. Khi được hoàn thành, thư
viện này sẽ không phải chỉ dành cho người
Mỹ gốc Việt mà đó là một thư
viện ghi chép lại một cách có hệ
thống về tinh thần yêu chuộng tự do
của tất cả người Mỹ nói chung.
Do đó, thư viện này sẽ c̣n dành cho
mọi người Mỹ. Hội
Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa Người
Mỹ Gốc Việt tha thiết mong mỏi
được giữ mối giây liên lạc
với tất cả quư vị để
được chia xẻ, và để được
tường tŕnh tới quư vị những
diễn tiến của dự án thành lập thư
viện cho người Mỹ Gốc Việt
với hy vọng được sự hợp tác
và hỗ trợ từ của tất cả quư
vị trong việc bảo tồn di sản văn
hóa tốt đẹp của chúng ta. Xin chân thành
cảm tạ và Xin Chúc Mọi Sự an lành đến
tất cả quư vị và gia đ́nh VAHF Po Box 29534 Austin,
Texas, 78755
Email:VAHF04@gmail.com
|