Câu Chuyện Thầy Lang
Bệnh Loăng
Xương
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Ở tuổi “17, bẻ gẫy sừng trâu”, nếu chẳng may có té
ngă th́ cũng chỉ bị trầy da, xước thịt hoặc nặng lắm th́ bong gân,
trật khớp.
Nhưng tới tuổi 55-60, khi mà kinh nguyệt quư bà đă
từ giă ra đi, th́ té ngă có thể đưa tỡi gẫy chiếc xương hông, xương
đùi, xương chậu. Lư do là ở tuổi này, kích thích tố nữ giảm, kéo
theo sự mất calcium trong xương, xương trở nên mảnh mai, gịn và dễ
gẫy. Xương đă bị loăng hoặc xốp. Đó là bệnh Loăng xương hoặc Xốp
xương.
Sau e ngại bị Sa Sút Trí Tuệ (Alzheimer), té ngă
v́ loăng xương rồi nằm liệt giường liệt chiếu là mối e ngại kế tiếp
của tuổi về già.
Đại cương
Tại sao xương đang đặc, chắc mà đột nhiên lại trở
nên rỗng toác, mảnh mai như cái xơ mướp vậy. Thưa là tại v́ lớp “xi
măng” calci trong cốt sắt “ đạm chất protein” bị “rút ruột”.
Về phương diện cấu trúc, xương là một cái khung do
chất đạm tạo thành. Trên chiếc sườn đó calci bám kín vào. Calci càng
nhiều th́ xương càng đặc, chắc.
Khoảng 99% calci trong cơ thể được dùng để tạo
xương và răng. Phần c̣n lại lưu hành trong máu và có vai tṛ trong
sự đông máu, co dăn cơ thịt, chức năng enzym . Khi lượng calci cho
các nhu cầu thứ hai này thiếu th́ sinh tố D sẽ lấy calci từ xương để
đáp ứng.
Trong suốt đời người, calci liên tục được đưa tới
và lấy đi ở xương.
Vào thời kỳ thiếu niên, calci tới xương nhiều hơn
là rời khỏi xương. Tới tuổi trung niên th́ số lượng đến và đi bằng
nhau. Nhưng khi lên tới tuổi già th́ calci rời xương ra đi nhiều hơn
là đến với xương. Có hai nguyên nhân:
-Ở tuổi cao, sự hấp thụ calci trong thực phẩm của
ruột non giảm xuống, do đó không có nhiều calci để đóng vào xương.
-Estrogen do noăn sào tiết ra ít đi, mà estrogen
giúp calci bám vào xương. Do đó, nữ giới thường hay bị mỏng, loăng
xương hơn nam giới và tỷ lệ gẫy xương cũng cao hơn.
Thoái hóa xương là một biến đổi b́nh thuờng, khởi
sự ngay từ tuổi trung niên và tiếp tục cho tới khi về già. Trong
thay đổi này, thành phần cấu tạo xương không thay đổi, nhưng khối
lượng và độ đặc (bone mass & bone density) của xương thay đổi.
Bệnh loăng xương xảy ra khi xương thoái hóa nhiều
đến mức mà xương không chịu đựng được các sức ép b́nh thường, trở
nên dễ gẫy.
Bệnh thường thấy ở xương cổ tay, xương cột sống,
xương hông.
Loăng xương là một bệnh khá trầm trọng, nhưng lại
âm thầm diễn tiến với rất ít dấu hiệu báo trước, khiến cho nhiều
người không để ư, tới khi một xương nào đó gẫy sau một té ngă.
Loăng xương có thể là tiền phát hoặc thứ phát.
a-Tiền phát là do hậu quả những thay đổi b́nh
thường của tuổi cao và sự suy giảm chức năng của tuyến sinh dục. Có
khoảng 95% các trường hợp loăng xương ở trong nhóm này.
b-Thứ phát, khoảng 5%, gây ra do sự không vận động
cơ thể, bệnh kinh niên, thiếu dinh dưỡng, tác dụng phụ của một số
dược phẩm.
Các nguy cơ đưa tới loăng
xương
1 -Tuổi tác.
Loăng xương tăng với tuổi cao, dù là nam hay nữ
giới. Lư do là ở tuổi này, sự hấp thụ của calci ở ruột giảm và lượng
estrogen cần cho calci bám vào xương cũng ít hơn.
Các nhà chuyên môn cho hay, 90% trường hợp gẫy
xương ở người trên 60 tuổi là do loăng xương
2- Giới tính.
Nữ giới bị loăng xương nhiều hơn nam giới gấp bốn
lần. Lư do của sự khác biệt này là v́ nữ giới có khối lượng xương
nhỏ hơn nam giới; họ cũng thường ăn thực phẩm có ít calci hơn và ít
vận dụng sức lực.
Ngoài ra, tới tuổi măn kinh, estrogen nữ giảm do
đó calci ít được hấp thụ và chuyển vào xương.
3-Mầu da.
Người da trắng và da vàng thường hay bị loăng
xương hơn người da đen, v́ những người này có khối xương đặc hơn với
nhiều khoáng calci.
4-Y sử gia đ́nh
Nếu cha mẹ, anh chị em đă bị gẫy xương th́ thân
nhân tăng nguy cơ loăng xương lên gấp hai lần.
5- Thiếu estrogen.
Estrogen giúp hấp thụ calci từ thực phẩm và chuyển
vào xương. Estrogen giảm trong các trường hợp măn kinh, cắt bỏ buồng
trứng hoặc giảm chức năng tuyến sinh dục nam nữ.
Phụ nữ không có kinh kỳ trong một thời gian lâu v́
bất cứ lư do nào cũng đưa đến hư hao xương.
Những nữ thể thao gia vận động nhiều nên kinh
nguyệt thường bị gián đoạn. Hậu quả là sự giảm tế bào mỡ, giảm
estrogen, giảm calci và độ đặc của xương giảm đi khá nhiều.
6- Cho con bú.
Khi c̣n trong bụng mẹ cũng như khi mới sinh ra,
thai nhi cần rất nhiều calci để tạo xương và tăng trưởng. Do đó, khi
nuôi con bằng sữa mẹ quá sáu tháng th́ sự hao xương ngắn hạn có thể
xẩy ra. Người mẹ cần dùng thêm cho đủ số calci và sinh tố D để pḥng
bệnh xương.
Sau khi ngưng cho con bú, t́nh trạng calci ở người
mẹ trở lại b́nh thường.
7- Dược phẩm.
Dùng steroid quá 6 tháng để chữa một bệnh nào đó,
như hen suyễn, viêm xương khớp đều là rủi ro bị loăng xương.
Steroid giảm sự hấp thụ calci ở ruột, giảm sự tái
hấp thụ calci ở thận, tăng sự rút calci từ xương và làm cho xương
trở nên xốp.
Một số dược phẩm khác như Dilantin, Phenobarbital,
Lithium, Phenothiazine, Tetracycline, Cyclosporin, kích thích tố
tuyến cận giáp (parathyroid gland)...cũng làm tiêu hao calci từ
xương hoặc ngăn cản sự hấp thụ calci ở ruột.
8- Không vận động cơ thể.
Cơ thể ít vận động đưa tới hao xương, giảm khối
xương.
Lư do sự cử động bắp thịt tạo sức ép lên xương và
làm cho xương bền chắc hơn. Người bệnh nằm liệt giường lâu ngày th́
xương rất yếu và dễ gẫy.
Các phi hành gia trong không gian trong thời gian
lâu cũng có rủi ro hư hao xương, v́ cơ thể chỉ bay bổng mà không vận
động
9-Tâm trạng buồn
Người thường xuyên buồn rầu, sợ hăi cũng có rủi ro
bị loăng xương hơn người “tâm thân an lạc” tới 6%. Lư do là trong
t́nh trạng stress, lượng cortisol tăng, gây trở ngại cho sự hấp thụ
calci.
10- Hút nhiều thuốc lá.
So với người không hút thuốc lá, người hút có tỷ
lệ loăng xương nhiều hơn tới từ 6-10%. Hậu quả là gẫy cột sống tăng
gấp đôi và xương hông tăng 50%.
Tại Hoa kỳ, cứ 8 trường hợp gẫy xương ở phụ nữ th́
một trường hợp do hút thuốc lá lâu năm.
Nguyên lư của tác động này chưa được biết rơ.
Thường thường, người hút nhiều thuốc lá có thân h́nh mảnh mai, ít
vận động. Riêng đối với nữ giới, thuốc lá có thể đưa tới sớm tắt
kinh và ảnh hưởng tới sự sản xuất estrogen.
11- Nghiện rượu
Rượu tăng hormon của tuyến cận giáp parathyroid
đưa tới giảm calci dự trữ; giảm sự sản xuất sinh tố D cần thiết cho
hấp thụ calci; giảm kích thích tố testosterone và estrogen đưa tới
kém hấp thụ calci.
Người say rượu cũng tăng rủi ro té ngă, gẫy xương.
12-Thiếu sinh tố D.
Quan sát những người sử dụng cùng lượng calcium
như nhau, người sống ở vùng ít có ánh nắng thường bị loăng xương
nhiều hơn người sống ở nơi có nhiều ánh nắng mặt trời. Đó là v́ nắng
chiếu trên da tạo ra sinh tố D và sinh tố này góp phần tích cực
trong việc hấp thụ calci và bảo vệ xương.
12-Nhiều chất xơ
Thực phẩm thực vật nhiều chất xơ ngăn cản sự hấp
thụ calci.
13-Chất đạm
Tiêu thụ quá nhiều chất đạm động vật làm tăng bài
tiết calci trong nước tiểu, trong khi chất đạm thực vật không có tác
dụng này.
14-Cà phê
Uống nhiều cà phê cũng làm hao xương ở người cao
tuổi, nhất là khi không uống thêm sữa có bổ sung calci.
Pḥng tránh loăng xương
Mặc dù được coi như một bệnh khó tránh và có hậu
quả nghiêm trọng của tuổi già, nhưng các nghiên cứu mới đây cho thấy
bệnh có thể một phần nào tránh và chữa được.
Xương cứng mạnh hay yếu gịn tùy thuộc vào sự dinh
dưỡng, sự vận động cơ thể và lượng kích thích tố estrogen.
Cho nên để pḥng bệnh, ta cần lưu ư duy tŕ tốt ba
yếu tố này.
1-Tiêu thụ đủ số lượng calci mà cơ thể cần qua
thực phẩm.
Dinh dưỡng lành mạnh là điều rất quan trọng để có
bộ xương vững chắc. Dinh dưỡng này dựa trên sự khéo léo chọn lựa các
loại thực phẩm căn bản có nhiều calci. Thực phẩm có nhiều calci là
sữa, sữa chua, pho mát cứng, cá sardine, cá salmon, ṣ, rau có lá
màu lục, cam, đậu nành.
Đậu nành có loại phytoestrogen, tương tự như
estrogen của cơ thể, nên cũng có tác dụng tốt trong việc hấp thụ
calci.
Tuổi thiếu niên cần 1200mg calci mỗi ngày, tuổi
trưởng thành cần 1500mg/ngày.
Nếu v́ lư do nào đó mà không đủ calci qua thực
phẩm, có thể dùng calci phụ. Nên uống khi ăn no để calci dễ dàng hấp
thụ và không quá 600mg mỗi lần.
Nên tham khảo ư kiến bác sĩ trước khi dùng thêm
calci, v́ tiêu thụ quá nhiều, calci có thể đưa tới vài rối loạn như
nhịp tim bất thường, tổn thưng mạch máu, suy yếu cơ, nhức đầu, sỏi
thận.
2-Cần dùng thêm sinh tố D
khoảng 400 IU-800UI/ngày để giúp sự hấp thụ calci
được hữu hiệu.
3-Vận động cơ thể
Xương là những mô bào sống, cần được sự vận động
của cơ bắp để vững chắc. Do đó, nếu quá tĩnh tại, khối lượng xượng
sẽ giảm rất nhiều.
Ngoài sự làm xương vững chắc, vận động c̣n giảm
thiểu nguy cơ té ngă bằng cách tăng cường sức mạnh bắp thịt, cải
thiện sự thăng bằng và phối hợp các động tác của cơ thể.
Vận động cũng giúp trái tim khỏe mạnh, tăng sức
lực cơ thể.
Đi bộ, chạy, đánh tennis, khiêu vũ, cử tạ đều rất
tốt.
Chỉ cần 30 phút đi bộ mỗi ngày là xương cốt chắc
bền hơn rồi.
Ngoài ra:
- nếu thiếu estrogen, nên thảo luận với bác sĩ coi
có thể dùng estrogen thay thế.
-ngưng uống rượu, hút thuốc lá và
- thay thế dược phẩm đang dùng gây ra hao xương.
Khám phá loăng xương trước khi xương gẫy
Ở tuổi cao hoặc có rủi ro bị loăng xương, nên làm
một số thử nghiệm để sớm khám phá coi có bị hao xương trước khi
xương gẫy.
Đo tỷ trọng xương (densitrometry) giúp t́m ra bệnh
loăng xương trước khi có triệu chứng bệnh như gẫy xương, giảm chiều
cao, lệch xương sống.
Đây là một kỹ thuật khá chính xác để ước lượng
nguy cơ gẫy xương và để theo dơi việc điều trị bệnh này.
Những người nên làm xét nghiệm tỷ trọng xương là:
-Phụ nữ dưới 65 tuổi ở trong thời kỳ măn kinh mà
có một hay nhiều nguy cơ bị loăng xương;
-Tất cả phụ nữ trên 65 tuổi;
-Phụ nữ đă hết kinh mà bị gẫy xương;
-Phụ nữ đang được điều trị với kích thích tố thay
thế, với thuốc cortisone lâu ngày và phụ nữ thiếu estrogen;
-Người đang được điều trị bệnh loăng xương.
Điều trị
Nếu được điều trị sớm, loăng xương có thể chữa
được.
Dược phẩm thuộc nhóm Biphosphonates etidronate (Didronel),
pamidronate (Aredia), alendronate (Fosamax), risedronate (Actonel),
zoledronate (Zometa or Reclast), ibandronate (Boniva), đứng đầu
trong các loại thuốc để điều trị loăng xương.
Bằng cách vừa ngăn chặn sự tiêu hao và tăng cường
độ đặc của xương, thuốc giảm rủi ro gẫy xương hông và cột sống rất
nhiều.
Thuốc được coi như an toàn, nhưng cũng có một số
tác dụng phụ như ợ chua, đau bụng, nhức đầu, đau bắp thịt, táo bón,
tiêu chẩy, đầy hơi..
Để thuốc công hiệu và tránh kích thích thực quản,
nên:
-Uống vào buổi sáng với một ly đầy nước, khoảng 30
phút trước khi ăn hoặc dùng loại thuốc nào khác.
-Ngồi nghỉ khoảng nửa giờ để tránh ợ chua.
-Đừng uống vào buổi chiều nếu quên không uống sáng
nay.
Không dùng thuốc kể trên nếu có thai, đang có bệnh
thận trầm trọng, bị ợ chua với viêm thực quản.
Ngoài ra, các dược phẩm như Raloxifene, calcitonin,
estrogen, kích thích tố tuyến cận giáp cũng được dùng để trị loăng
xương.
Kết luận
Pḥng tránh loăng xương đă quan hệ, nhưng pḥng
tránh té ngă ở người cao tuổi cũng không kém phần quan trọng.
V́ mất thăng bằng cơ thể, kém thị giác, bắp thịt
suy yếu, mất phương hướng, dùng nhiều dược phẩm có thể khiến cho
người tuổi cao dễ bị té ngă.
Và gẫy xương sẽ xảy ra.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas-Hoa Kỳ -
http://www.nguyenyduc.com
|