DINH DƯỠNG và BỆNH THẬN

Bác sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC

 

Nhiều người sanh ra chỉ có một trái thận, c̣n trái kia bà mụ mải  vui chơi quên không gắn vào.

Thực ra , mỗi người chỉ cần một trái thận là đủ để hoàn tất những nhiệm vụ căn bản. Nhưng Thượng Đế đă nghĩ đến việc một lúc nào đó, một trái thận sẽ được hiến dâng cho người thân khi mà cả hai trái thận của họ suy hư. Cho nên, Ngài ban cho mỗi người hai trái, nằm hai bên xương sống, sau bụng, cho cân bằng.

Thận chỉ nhỏ bằng nắm tay một em bé,  h́nh hạt đậu, mầu hồng nhạt, nửa đỏ nửa nâu, nặng khoảng 115 gram. Cấu tạo chính của thận là cả triệu những tiểu cầu thận tinh vi, nhỏ bé mà mỗi ngày có tới gần hai trăm lít chất lỏng với đủ các thành phần hóa chất lọc qua và  khoảng 1,5 lít nước tiểu được thận bài tiết ra ngoài.

Tuy nhỏ bé nhưng thận có  những  chức năng rất quan hệ.

Nhiệm vụ căn bản của thận là điều ḥa toàn thể khối  chất lỏng  trong cơ thể, cân bằng nồng độ acid/kiềm; sa thải các cặn bă như urea, uric acid,  creatinine, ammonia; giữ  lại chất dinh dưỡng đường glucose, đạm,  hồng huyết cầu, bạch cầu, tiểu cầu. Nếu chức năng này ngưng khoảng hai tuần là con người có thể mệnh một.

Thận tiết ra những kích thích tố để kiểm soát sự xuất nhập của nước, khoáng sodium và potassium. Thận giúp giữ huyết áp b́nh thường; góp phần vào việc cấu tạo hồng huyết cầu. Thận cũng liên can tới việc sử dụng khoáng calcium và phosphore trong tiến tŕnh tạo xương.  Thận c̣n liên hệ tới sự cấu tạo hồng cầu ở tủy sống với kích thích tố erythropoietin do thận tiết ra.

Trong các nhiệm vụ kể trên của thận, không thấy Thượng Đế nói ǵ đến việc nhiều vị  nam nhi yếu  sinh lư, kém t́nh dục, lại cứ than phiền là do bại thận. Nên họ phải t́m uống Tam Tinh Hải Cẩu Bổ Thận Hoàn hoặc các thuốc bổ thận, cường dương khác.

Suy Thận ( Renal Failure )

Với các sinh hoạt b́nh thường và với sự chăm sóc, giữ ǵn của con người th́ thận có thể tồn tại và làm việc cho đến khi chủ nhân hai năm mươi. Nhưng, cũng như các bộ phận khác trong cơ thể, thận có thể bị suy yếu hư hao v́ nhiều lư do.

Chức năng bài tiết  của thận giảm  một cách tự nhiên theo nhịp  độ hóa già của cơ thể. Tới tuổi 70 th́  con số tiểu cầu thận giảm, lượng máu qua thận cũng bớt đi và thận đă có một vài khó khăn đáp ứng với sự thay đổi hóa chất trong máu. B́nh thường, thận có thể tiếp tục nhiệm vụ bài tiết dù chỉ c̣n lại vài chục phần trăm tiểu cầu lọc. Các tiểu cầu này sẻ lớn lên và làm việc gấp đôi gấp ba để bù đắp cho các tiểu cầu đă hư hao

1-Bệnh lư

Thận có thể bị viêm  do các tác nhân hóa học, dược phẩm, vật lư hay  tác nhân gây  nhiễm. Bệnh ngoài thận như tiểu đường, cao huyết áp, hoặc một cản trở lưu thông máu tới thận cũng đủ để làm thận không làm việc được..

Hậu quả của suy thận là sự  ứ đọng các chất bă  trong máu, nhất là loại urea, phó sản của dinh dưỡng đạm chất.

Thận suy từ từ. Lúc đầu hầu như không có dấu hiệu. Rồi một số  bệnh  nhân cảm thấy hơi mỏi mệt, hay đi đái ban đêm v́ thận không c̣n khả năng cô đọng nước tiểu; bàn chân hơi sưng, huyết áp hơi lên cao, hồng cầu hơi giảm.

Khi bệnh trầm trọng th́ các biến chứng cũng leo thang: huyết áp  cao vọt, nhịp tim loạn xạ, thiếu hồng cầu, xương yếu dễ gẫy, xuất huyết bao tử, băng huyết v́ máu loăng, mất chất dinh dưỡng. Khoáng sodium và potassium bị giữ lại trong cơ thể. Nhiều sodium quá đưa đến cao huyết áp, sưng phù chân. Potassium cao làm nhịp tim đập loạn. 

Bệnh nhân  ói mửa, mất kư trở nên suy yếu dần nếu không được chữa chạy kịp thời. Khi đă đến giai đoạn cuối của thận suy  th́  chỉ c̣n có cách thay thận hoặc thẩm tách huyết ( Hemodialysis) mà một trong nhiều công dụng là để loại bỏ potassium và urea quá cao trong máu.

2-Dinh dưỡng với Suy Thận

Dinh dưỡng trong  suy thận có vai tṛ rất quan trọng và tập trung vào các mục đích sau đây:

a-Tránh cho thận khỏi làm việc quá sức;

b-Tránh suy dinh dưỡng mà vẫn giữ sức nặng b́nh thường của cơ thể;

c-Tránh mất thăng bằng khoáng sodium và potassium;

d-Tránh máu nhiễm hóa chất bă ure'.

 Cặn bă của đạm chất trong chuyển hóa là  urea mà thận phải loại ra ngoài. Ăn càng nhiều đạm chất  th́ cặn bă urea càng cao, và thận càng phải làm việc khó nhọc   hơn để bài tiết ra ngoài. Tiêu thụ chất đảam tăng hay giảm tùy theo t́nh trạng suy thận.. Với suy thận kinh niên  th́ có việc hạn chế chất đạm trong phần ăn.

Chất đạm cho người bệnh phải có phẩm chất tốt, với đủ các loại amino acid. Thịt động vật hội đủ  điều kiện này hơn chất đạm từ  thực vật. Nhưng người bệnh vẫn cần một số calories căn bản, nên khi giảm đạm, ta có thể tăng carbohydrates hoặc chất béo loại bất băo ḥa.

V́ suy thận có khuynh hướng giữ sodium và potassium trong máu, nên trong thực phẩm cần giới hạn hai muối khoáng này để tránh phù nước và các biến chứng khác.

Sự hấp thụ calcium tùy thuộc vào mức độ phosphore trong máu. Trong suy thận, phosphore bị giữ lại, đưa đến giảm calcium. Mà không thể tăng calcium lại  không tăng phosphore trong thực phẩm, nên người suy thận cần uống thêm khoảng 500mg calcium mỗi ngày, ngơ hầu tránh được biến chứng  suy yếu ở xương.

Nước uống cũng cần được cân bằng với nước mất đi qua tiểu tiện, đổ mồ hôi, hơi thở..

Ngoài ra người bệnh cũng cần dùng thêm các sinh tố C,B, folic acid mà không cần uống thêm các sinh tố ḥa tan trong mỡ như sinh tố A, E, K.

Một chế độ dinh dưỡng cho người suy thận rất phức tạp, nên người bệnh cần phải lấy ư kiến của chuyên viên dinh dưỡng cũng như từ bác sĩ đang săn sóc ḿnh. Mỗi cá nhân  cần có một khẩu phần riêng biệt, thích hợp với bệnh t́nh của ḿnh.

 

SẠN cơ quan Tiết Niệu

Sạn đường tiết niệu là bệnh rất xưa và thường  thấy. Chỉ cần bị bệnh  một lần là ta  nhớ măi những cơn đau khiếp đảm mà sạn gây ra khi nó di chuyển trong đường tiết niệu. Có người nói là đau sạn thận  c̣n khủng khiếp hơn khi các bà đau bụng “vượt cạn chỉ có một ḿnh”

Ngày nay, nhờ nhiều phương pháp điều trị tiến bộ, sạn được loại bỏ dễ dàng, mau lẹ và an toàn. Sau đó, với các phương pháp pḥng ngừa hữu hiệu, bệnh ít có nguy cơ tái phát và con người tránh được sự ôm bụng kêu đau.

Sạn  là kết quả của một loạt những phản ứng hóa học, trong đó nước tiểu trở nên quá đậm đặc khiến các chất calcium oxalate, uric acid, cystine kết tinh lại thành những hạt nhỏ. Rồi với thời gian, các hạt nhỏ này  kết tụ dần dần thành cục sạn lớn

Bệnh có thể xẩy ra cho nhiều người trong một gia đ́nh hoặc gây ra do các  rối loạn của ruột, tuyến giáp trạng hoạc do khiếm khuyết trong cấu tạo của hai trái thận.

 Đàn ông bị sạn thận gấp đôi đàn bà. Cho tới tuổi 70 tuổi th́ 5% nữ giới và 9% nam giới đều mắc bệnh sạn thận ít nhất một lần. Sau đó sạn thường hay tái phát. Người da trắng bị sạn nhiều hơn người da mầu.

Bệnh thường xẩy ra cho dân cư sống ở vùng khí hậu khô nóng hơn là ở  nơi nhiệt độ ôn ḥa. Không uống nước đầy đủ khiến nồng độ nước tiểu cô đặc  là một trong nhiều yếu tố đưa đến sạn kết tinh.

Một vài dược phẩm như triamterene, acetazolamide có thể gây ra sạn thận. Tiêu thụ thực phẩm nhiều oxalate cũng có thể là một nguy cơ.

Các loại sạn

Sạn thận có thể do nhiều hóa chất tạo thành.

1- Sạn calcium.

Có tới 75% sạn được cấu tạo bằng chất calcium (oxalate, phos phate , carbonate). Nam giới  bị loại sạn này nhiều  gấp hai ba lần nữ giới. Sạn bắt đầu vào tuổi từ  20 đến 30 và hay tái phát vào những năm sau đó. Calcium oxalate là nhiều nhất và thường thường là do ăn thực phẩm có nhiều hóa chất này hoặc do hậu quả các bệnh ở ruột  hoặc tăng chức năng tuyến cận giáp mà ra. 

2- Sạn uric acid.

Chiếm 10% các loại sạn thận và cũng có nhiều ở đàn ông. Người bị sạn này thường cũng bị bệnh thống phong (gout).

3- Sạn cystine. 1%, thường do di truyền gây ra.

4- Sạn struvite.

To, đôi khi làm nghẹt thận, gây ra do các bệnh nhiễm trùng đường tiểu tiện.

Các loại sạn trên  có thể nhỏ như hạt cát hoặc lớn như trái banh bóng bàn; có thể trơn tru nhẵn nhụi hay sắc cạnh.

Sạn được tạo ra trong trái thận hay trong ống dẫn nước tiểu.

Thường thường sạn thận không gây đau trừ khi nó di chuyển từ thận xuống ống dẫn tiểu. Những cơn đau này rất dữ dội khiến người bệnh nhớ suốt đời.

Nguy cơ gây sạn:

a-Sạn thận xẩy ra khi ta không uống đầy đủ nước, nước tiểu trở nên đậm đặc, các hóa chất kể trên kết tinh;

b-Khi ta ăn quá nhiều vài thực phẩm như bơ, sữa, chocolate, đậu phọng;

c-Khi có nhiễm trùng đường tiết niệu;

 đ-Trước đây đă có sạn;

 e-Đàn ông;

g-Trong gia đ́nh có thân nhân bị sạn.

Triệu chứng

Cơn đau do sạn di chuyển hoặc kẹt ở thận, ống dẫn nước tiểu  đều rất dữ dội và xẩy ra  bất th́nh ĺnh. Đau xuất phát  ở một bên mạng mỡ hay bụng dưới, chạy xuống bẹn, bắp đùi. Các cơn đau không thuyên giảm với thay đổi vị trí nằm, ngồi hoặc sau khi uống thuốc chống đau không có chất á phiện. Đôi khi bệnh nhân bị sốt ,  ớn lạnh, ỉ đái ra máu, ói mửa.

B́nh thường, sạn hiện diện trong âm thầm. Cho nên t́m ra sạn đôi khi là do t́nh cờ chụp quang tuyến bụng trong lúc điều trị  các bệnh khác hoặc đi tiểu tiện ra sạn nhỏ.

Khi nghi ngờ có sạn, bác sĩ sẽ thử nước tiểu coi xem có lẫn máu và nhiễm trùng không; rồi sẽ cho chụp h́nh  quang tuyến các loại để xác định sự hiện diện của sạn.

Điều trị

Để chữa sạn thân, các nhà chuyên môn về khoa tiết niệu có thể áp dụng mấy cách sau đây:

a- Theo dơi-Đợi chờ. Trong nhiều trường hợp, sạn nhỏ có thể được tiểu tiện ra ngoài, nhất là khi ta uống nhiều nước (10 ly trong ngày, 1 ly trước khi đi ngủ).  Mỗi lần tiểu, lọc coi có sạn nhỏ trong nước tiểu, đưa bác sĩ để phân loại.

b- Dùng thuốc. Tùy theo loại sạn, sẽ có dược phẩm thích hợp.

Nếu sạn loại uric acid th́ thuốc Allopurinol sẽ làm giảm hóa chất này trong máu, dung dịch Bicarbonate làm tan sạn. Đồng thời cần uống nhiều nước.

Sạn cystine thường rất hiếm, thuốc Penicillamine, Tiopronun thường được dùng để làm giảm cystine. Nên uống nhiều nước.

Khi sạn gây ra nhiễm trùng đường tiểu tiện, thuốc  kháng sinh được dùng trước khi sạn được lấy ra.

c- Nghiền sạn bằng sóng lực trong nước (Shock wave lithotripsy): Đây là phương pháp trị liệu tương đối mới, được sáng chế bên Tây Đức và bắt đầu dùng ở Hoa Kỳ từ năm 1984.

Có nhiều loại máy nhưng nguyên tắc chung giống nhau: máy tạo ra những đợt sóng lực có sức mạnh làm rạn nứt, tan vỡ sạn mà không gây thương tích cho cơ thể. Phương pháp này được áp dụng cho trường hợp sạn nằm ở thận hoặc phần trên của ống nước tiểu.

Người bệnh nằm trên một cái nệm nước hay trong bể nước, các đợt sóng có sức mạnh chuyển qua nước, dội vào nơi có sạn. Trung b́nh cần từ 200 tới 400 đợt sóng để làm vỡ sạn, đôi khi cần tới 1500 đợt. Thời gian chạy máy lâu khoảng một giờ.

Phương pháp  có thể thực hiện trong ngày, sau vài giờ theo dơi, bệnh nhân có thể về nhà. Thường thường không cần đánh thuốc mê, nhưng để bớt đau, bệnh nhân được cho liều thuốc an thần. Bệnh nhân cũng mang máy bịt tai để tránh âm thanh to do sóng lực gây ra.

Khi về nhà, cần uống nhiều nước, đi tới đi lui, tiểu tiện ngay khi mót đái, lọc nước tiểu để theo dơi sạn ra nhiều hay ít.

d- Giải phẫu. Khi các phương pháp trên không có kết quả th́ nhiều phương thức giải phẫu được áp dụng và bệnh nhân cần được nhập bệnh viện.

Pḥng ngừa lâu dài

Mỗi lần đau sạn là một kỷ niệm đáng ghi nhớ. Cho nên để tránh sạn tái phát, người bệnh cần biết cách pḥng ngừa, gồm có:

a- Uống nhiều nước để tránh t́nh trạng thiếu nước trong cơ thể, khiến nước tiểu cô đặc tạo ra cơ hội thuận tiện cho sạn kết tinh, đóng cục. Có bác sĩ khuyên phải uống chừng 10 ly nước một ngày.Tránh chất lỏng làm mất nước trong cơ thể như cà phê, rượu. Nhưng khi đau là lúc sạn di chuyển trong ống th́ không nên uống nước. Sạn có thể làm kẹt niệu quản , đưa tới ph́nh nở các khoang ở thận.

b- Ăn kiêng: sạn được cấu tạo bởi hóa chất có trong vài thực phẩm, nên ta cần tránh. Khi bị sạn calcium, ta cần giảm thiểu thực phẩm nhiều calcium như bơ sữa, chocolate, đậu phọng; với sạn uric acid th́ ta cần bớt ăn thịt v́ thịt làm tăng purine, tiền thân của acid này; c̣n sạn cystine th́ cần giới hạn cá v́ cá có nhiều chất cystine.

c- Uống thuốc theo toa bác sĩ và giữ hẹn để được theo dơi t́nh trạng sạn. Sự theo dơi này cần thực hiện hầu như suốt đời.

Dinh dưỡng với bệnh sạn thận

Người bị sạn thận thường rất quan tâm tới vấn đề ăn uống. Họ chán ngán với cảnh lâu lâu lại bị cơn đau gắt khi sạn di chuyển nên muốn biết phải ăn kiêng khem ra sao cho sạn khỏi tái phát.

1-Sạn calcium oxalate.

Trước đây người bệnh thường được khuyên  bớt ăn thực phẩm chứa  nhiều calcium để giảm nguy cơ sạn thận. Nhưng thực ra, sự liên hệ không hoàn toàn như vậy. Cao calcium trong nước tiểu có thể không phải hoàn toàn v́  nhiều calcium  trong máu.

Một vài bệnh như chứng Tăng  Chức Năng Tuyến Cận Giáp ( Hyper-parathyroidism), rối loạn  dư thừa  sinh tố D, u bướu xương, bệnh sarcoidosis  đều làm tăng calcium trong máu và đều là nguyên nhân đưa tới sạn trong thận. Chữa những bệnh này sẽ  làm giảm calcium trong máu và nước tiểu.

Nhiều khi calcium trong nước tiểu cao là do sự hấp thụ từ thực phẩm  trong  một vài bệnh của  ruột ( Crohn' disease, suy tụy tạng) hoặc  khi dùng  quá nhiều sinh tố C ( sinh tố này được biến hóa ra oxalate) hoặc do thận rỉ calcium ra ngoài.

Nếu là do hấp thụ từ ruột th́ sự hạn chế thực phẩm có  oxalate calcium giúp  ích cho việc điều trị. Thực phẩm có nhiều oxalate là rau spinach, quả dâu, súc cù là, quả hạch ( nuts), trà.

Nhiều chuyên gia khuyên cắt bớt sự tiêu thụ calcium. Nhưng xin cẩn thận lấy ư kiến của bác sĩ trước, v́ hạn chế quá, cơ thể sẽ rút calcium ở xương và làm xương suy yếu, dễ gẫy.Có ư kiến khác cho là sự giới hạn này có thể làm tăng nguy cơ bị sạn oxalate, v́ calcium cao sẽ  giúp gia tăng  sự hấp thụ oxalate trong ruột và giảm sạn oxalate trong nước tiểu.

2-Sạn uric acid.

Uric acid là do sự chuyển hóa của chất purine trong chất đạm động vật và một số thực phẩm khác mà ra. Uric acid trong nước tiểu cũng lên cao ở người bị bệnh thống phong (gout), khi uống nhiều thuốc Aspirin, Probenecid.  Do đó, khi hạn chế thực phẩm có nhiều purine  sẽ làm giảm nguy cơ sạn này rất nhiều.

Thực phẩm có nhiều purine là: gan , óc, tim, thận động vật; cá herring, sardine; bia, rượu vang; thịt, đậu , rau cauliflower, nấm, rau spinach, tôm cá.

3-Sạn struvite  gồm các hóa chất ammonium, magnesium và phosphate. Và thường thấy ở nữ giới. Bệnh thường do nhiễm vi khuẩn đường tiểu tiện với các loại Proteus hoạc Klebsiella, khiến chất urea phân hóa thành các tinh thể ammonium Tinh thể tụ lại với nhau và đưa tới sạn thận.

Bệnh sạn này thường được chữa bằng thuốc kháng sinh để loại trừ  nhiễm trùng hoặc bằng giải phẫu. Dinh dưỡng không có vai tṛ ǵ trong loại sạn này.

Kết luận

Trong tất cả các trường hợp sạn bộ máy tiết niệu, số lượng nước tiêu thụ hàng ngày có  một vai tṛ rất quan trọng. Nước uống làm nước tiểu loăng và ngăn ngừa các tinh thể gây sạn kết tụ với nhau. Cho nên, mỗi ngày, người bị bệnh sạn  thận cần uống ít nhất tám ly nước hoặc nhiều hơn.

Xin lưu ư là  một số thực phẩm làm thay đổi mức độ kiềm hoặc acid của nước tiểu ( chỉ số pH) và có ảnh hưởng tới sự kết tinh các hóa chất trong sạn thận.

 Rau, trái cây( ngoại trừ trái prune, plumbs, cranberries), sữa,  làm nước tiểu có độ kiềm.

Thực phẩm có nhiều chất đạm như thịt, cá, trứng, pho mát; trái plumb, prunes, cranberries, ngô báp, đậu lentils  làm nước tiểu có độ acid.

Ngoài ra, kinh nghiệm các cụ ta là nước sắc rễ đu đủ, nước ngô và râu ngô  luộc, nước sắc cây râu mèo cũng được dùng để tiêu sạnỉ Xin quư thân hữu thử coi xem có công hiệu khôngỉ Vừa rẻ tiền vừa  không sợ tác dụng phụ của hóa chất trong dược phẩm.

Bác sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC

Texas-USA