|
DINH
DƯỠNG và BỆNH THẬN
Nhiều
người sanh ra chỉ có một trái thận, c̣n
trái kia bà mụ mải vui chơi quên không gắn vào. Thực
ra , mỗi người chỉ cần một trái
thận là đủ để hoàn tất
những nhiệm vụ căn bản. Nhưng Thượng
Đế đă nghĩ đến việc một
lúc nào đó, một trái thận sẽ được
hiến dâng cho người thân khi mà cả hai trái
thận của họ suy hư. Cho nên, Ngài ban cho
mỗi người hai trái, nằm hai bên xương
sống, sau bụng, cho cân bằng. Thận
chỉ nhỏ bằng nắm tay một em bé,
h́nh hạt đậu, mầu hồng
nhạt, nửa đỏ nửa nâu, nặng
khoảng 115 gram. Cấu tạo chính của
thận là cả triệu những tiểu cầu
thận tinh vi, nhỏ bé mà mỗi ngày có tới
gần hai trăm lít chất lỏng với đủ
các thành phần hóa chất lọc qua và
khoảng 1,5 lít nước tiểu được
thận bài tiết ra ngoài. Tuy
nhỏ bé nhưng thận có
những chức năng rất quan hệ. Nhiệm
vụ căn bản của thận là điều
ḥa toàn thể khối
chất lỏng trong
cơ thể, cân bằng nồng độ
acid/kiềm; sa thải các cặn bă như urea,
uric acid, creatinine, ammonia; giữ
lại chất dinh dưỡng đường
glucose, đạm, hồng
huyết cầu, bạch cầu, tiểu cầu.
Nếu chức năng này ngưng khoảng hai
tuần là con người có thể mệnh
một. Thận
tiết ra những kích thích tố để
kiểm soát sự xuất nhập của nước,
khoáng sodium và potassium. Thận giúp giữ huyết
áp b́nh thường; góp phần vào việc
cấu tạo hồng huyết cầu. Thận cũng
liên can tới việc sử dụng khoáng calcium và
phosphore trong tiến tŕnh tạo xương.
Thận c̣n liên hệ tới sự cấu
tạo hồng cầu ở tủy sống
với kích thích tố erythropoietin do thận
tiết ra. Trong
các nhiệm vụ kể trên của thận, không
thấy Thượng Đế nói ǵ đến
việc nhiều vị
nam nhi yếu sinh
lư, kém t́nh dục, lại cứ than phiền là
do bại thận. Nên họ phải t́m uống
Tam Tinh Hải Cẩu Bổ Thận Hoàn hoặc các
thuốc bổ thận, cường dương khác. Suy
Thận ( Renal Failure ) Với
các sinh hoạt b́nh thường và với sự
chăm sóc, giữ ǵn của con người th́
thận có thể tồn tại và làm việc cho
đến khi chủ nhân hai năm mươi. Nhưng,
cũng như các bộ phận khác trong cơ
thể, thận có thể bị suy yếu hư
hao v́ nhiều lư do. Chức
năng bài tiết của
thận giảm một
cách tự nhiên theo nhịp
độ hóa già của cơ thể.
Tới tuổi 70 th́ con
số tiểu cầu thận giảm, lượng
máu qua thận cũng bớt đi và thận
đă có một vài khó khăn đáp ứng
với sự thay đổi hóa chất trong máu. B́nh
thường, thận có thể tiếp tục
nhiệm vụ bài tiết dù chỉ c̣n lại vài
chục phần trăm tiểu cầu lọc. Các
tiểu cầu này sẻ lớn lên và làm
việc gấp đôi gấp ba để bù đắp
cho các tiểu cầu đă hư hao 1-Bệnh
lư Thận
có thể bị viêm do
các tác nhân hóa học, dược phẩm,
vật lư hay tác
nhân gây nhiễm.
Bệnh ngoài thận như tiểu đường,
cao huyết áp, hoặc một cản trở lưu
thông máu tới thận cũng đủ để
làm thận không làm việc được.. Hậu
quả của suy thận là sự
ứ đọng các chất bă
trong máu, nhất là loại urea, phó sản
của dinh dưỡng đạm chất. Thận
suy từ từ. Lúc đầu hầu như không
có dấu hiệu. Rồi một số
bệnh nhân
cảm thấy hơi mỏi mệt, hay đi
đái ban đêm v́ thận không c̣n khả năng
cô đọng nước tiểu; bàn chân hơi
sưng, huyết áp hơi lên cao, hồng cầu hơi
giảm. Khi
bệnh trầm trọng th́ các biến chứng cũng
leo thang: huyết áp cao vọt, nhịp tim loạn xạ,
thiếu hồng cầu, xương yếu dễ
gẫy, xuất huyết bao tử, băng
huyết v́ máu loăng, mất chất dinh dưỡng.
Khoáng sodium và potassium bị giữ lại trong cơ
thể. Nhiều sodium quá đưa đến cao
huyết áp, sưng phù chân. Potassium cao làm nhịp
tim đập loạn.
Bệnh
nhân ói mửa,
mất kư trở nên suy yếu dần nếu không
được chữa chạy kịp thời. Khi
đă đến giai đoạn cuối của
thận suy th́
chỉ c̣n có cách thay thận hoặc
thẩm tách huyết ( Hemodialysis) mà một trong
nhiều công dụng là để loại bỏ
potassium và urea quá cao trong máu. 2-Dinh
dưỡng với Suy Thận Dinh
dưỡng trong suy
thận có vai tṛ rất quan trọng và tập
trung vào các mục đích sau đây: a-Tránh
cho thận khỏi làm việc quá sức; b-Tránh
suy dinh dưỡng mà vẫn giữ sức
nặng b́nh thường của cơ thể; c-Tránh
mất thăng bằng khoáng sodium và potassium; d-Tránh
máu nhiễm hóa chất bă ure'. Cặn
bă của đạm chất trong chuyển hóa là
urea mà thận phải loại ra ngoài. Ăn
càng nhiều đạm chất
th́ cặn bă urea càng cao, và thận càng
phải làm việc khó nhọc
hơn để bài tiết ra ngoài. Tiêu
thụ chất đảam tăng hay giảm tùy
theo t́nh trạng suy thận.. Với suy thận
kinh niên th́ có
việc hạn chế chất đạm trong
phần ăn. Chất
đạm cho người bệnh phải có
phẩm chất tốt, với đủ các
loại amino acid. Thịt động vật
hội đủ điều
kiện này hơn chất đạm từ
thực vật. Nhưng người bệnh
vẫn cần một số calories căn bản,
nên khi giảm đạm, ta có thể tăng
carbohydrates hoặc chất béo loại bất băo ḥa. V́
suy thận có khuynh hướng giữ sodium và
potassium trong máu, nên trong thực phẩm cần
giới hạn hai muối khoáng này để tránh
phù nước và các biến chứng khác. Sự
hấp thụ calcium tùy thuộc vào mức độ
phosphore trong máu. Trong suy thận, phosphore bị
giữ lại, đưa đến giảm
calcium. Mà không thể tăng calcium lại
không tăng phosphore trong thực phẩm, nên
người suy thận cần uống thêm
khoảng 500mg calcium mỗi ngày, ngơ hầu tránh
được biến chứng
suy yếu ở xương. Nước
uống cũng cần được cân bằng
với nước mất đi qua tiểu
tiện, đổ mồ hôi, hơi thở.. Ngoài
ra người bệnh cũng cần dùng thêm các
sinh tố C,B, folic acid mà không cần uống thêm
các sinh tố ḥa tan trong mỡ như sinh tố A,
E, K. Một
chế độ dinh dưỡng cho người
suy thận rất phức tạp, nên người
bệnh cần phải lấy ư kiến của
chuyên viên dinh dưỡng cũng như từ bác
sĩ đang săn sóc ḿnh. Mỗi cá nhân
cần có một khẩu phần riêng
biệt, thích hợp với bệnh t́nh của ḿnh. SẠN
cơ quan Tiết Niệu Sạn
đường tiết niệu là bệnh rất
xưa và thường
thấy. Chỉ cần bị bệnh
một lần là ta
nhớ măi những cơn đau khiếp
đảm mà sạn gây ra khi nó di chuyển trong
đường tiết niệu. Có người nói
là đau sạn thận
c̣n khủng khiếp hơn khi các bà đau
bụng “vượt cạn chỉ có một ḿnh” Ngày
nay, nhờ nhiều phương pháp điều
trị tiến bộ, sạn được
loại bỏ dễ dàng, mau lẹ và an toàn. Sau
đó, với các phương pháp pḥng ngừa
hữu hiệu, bệnh ít có nguy cơ tái phát và
con người tránh được sự ôm
bụng kêu đau. Sạn
là kết quả của một loạt
những phản ứng hóa học, trong đó nước
tiểu trở nên quá đậm đặc
khiến các chất calcium oxalate, uric acid, cystine
kết tinh lại thành những hạt nhỏ.
Rồi với thời gian, các hạt nhỏ này
kết tụ dần dần thành cục
sạn lớn Bệnh
có thể xẩy ra cho nhiều người trong
một gia đ́nh hoặc gây ra do các
rối loạn của ruột, tuyến giáp
trạng hoạc do khiếm khuyết trong cấu
tạo của hai trái thận. Đàn
ông bị sạn thận gấp đôi đàn bà.
Cho tới tuổi 70 tuổi th́ 5% nữ giới và
9% nam giới đều mắc bệnh sạn
thận ít nhất một lần. Sau đó
sạn thường hay tái phát. Người da
trắng bị sạn nhiều hơn người
da mầu. Bệnh
thường xẩy ra cho dân cư sống ở vùng
khí hậu khô nóng hơn là ở nơi nhiệt độ ôn ḥa. Không
uống nước đầy đủ khiến
nồng độ nước tiểu cô đặc
là một trong nhiều yếu tố
đưa đến sạn kết tinh. Một
vài dược phẩm như triamterene, acetazolamide
có thể gây ra sạn thận. Tiêu thụ
thực phẩm nhiều oxalate cũng có thể là
một nguy cơ. Các
loại sạn Sạn
thận có thể do nhiều hóa chất tạo thành. 1-
Sạn calcium. Có
tới 75% sạn được cấu tạo
bằng chất calcium (oxalate, phos phate , carbonate). Nam
giới bị
loại sạn này nhiều
gấp hai ba lần nữ giới. Sạn
bắt đầu vào tuổi từ
20 đến 30 và hay tái phát vào những năm
sau đó. Calcium oxalate là nhiều nhất và thường
thường là do ăn thực phẩm có
nhiều hóa chất này hoặc do hậu quả các
bệnh ở ruột hoặc tăng chức năng tuyến
cận giáp mà ra. 2-
Sạn uric acid. Chiếm
10% các loại sạn thận và cũng có
nhiều ở đàn ông. Người bị
sạn này thường cũng bị bệnh
thống phong (gout). 3-
Sạn cystine. 1%, thường do di truyền gây
ra. 4-
Sạn struvite. To,
đôi khi làm nghẹt thận, gây ra do các
bệnh nhiễm trùng đường tiểu
tiện. Các
loại sạn trên có
thể nhỏ như hạt cát hoặc lớn như
trái banh bóng bàn; có thể trơn tru nhẵn
nhụi hay sắc cạnh. Sạn
được tạo ra trong trái thận hay trong
ống dẫn nước tiểu. Thường
thường sạn thận không gây đau
trừ khi nó di chuyển từ thận xuống
ống dẫn tiểu. Những cơn đau này
rất dữ dội khiến người bệnh
nhớ suốt đời. Nguy
cơ gây sạn: a-Sạn
thận xẩy ra khi ta không uống đầy
đủ nước, nước tiểu trở
nên đậm đặc, các hóa chất kể trên
kết tinh; b-Khi
ta ăn quá nhiều vài thực phẩm như bơ,
sữa, chocolate, đậu phọng; c-Khi
có nhiễm trùng đường tiết niệu; đ-Trước
đây đă có sạn; e-Đàn
ông; g-Trong
gia đ́nh có thân nhân bị sạn. Triệu
chứng Cơn
đau do sạn di chuyển hoặc kẹt ở
thận, ống dẫn nước tiểu
đều rất dữ dội và xẩy ra
bất th́nh ĺnh. Đau xuất phát
ở một bên mạng mỡ hay bụng dưới,
chạy xuống bẹn, bắp đùi. Các cơn
đau không thuyên giảm với thay đổi
vị trí nằm, ngồi hoặc sau khi uống
thuốc chống đau không có chất á
phiện. Đôi khi bệnh nhân bị sốt ,
ớn lạnh, ỉ đái ra máu, ói
mửa. B́nh
thường, sạn hiện diện trong âm
thầm. Cho nên t́m ra sạn đôi khi là do t́nh
cờ chụp quang tuyến bụng trong lúc điều
trị các
bệnh khác hoặc đi tiểu tiện ra
sạn nhỏ. Khi
nghi ngờ có sạn, bác sĩ sẽ thử nước
tiểu coi xem có lẫn máu và nhiễm trùng không;
rồi sẽ cho chụp h́nh
quang tuyến các loại để xác định
sự hiện diện của sạn. Điều
trị Để
chữa sạn thân, các nhà chuyên môn về khoa
tiết niệu có thể áp dụng mấy cách
sau đây: a-
Theo dơi-Đợi chờ. Trong nhiều trường
hợp, sạn nhỏ có thể được
tiểu tiện ra ngoài, nhất là khi ta uống
nhiều nước (10 ly trong ngày, 1 ly trước
khi đi ngủ). Mỗi
lần tiểu, lọc coi có sạn nhỏ trong nước
tiểu, đưa bác sĩ để phân
loại. b-
Dùng thuốc. Tùy theo loại sạn, sẽ có dược
phẩm thích hợp. Nếu
sạn loại uric acid th́ thuốc Allopurinol sẽ
làm giảm hóa chất này trong máu, dung dịch
Bicarbonate làm tan sạn. Đồng thời cần
uống nhiều nước. Sạn
cystine thường rất hiếm, thuốc
Penicillamine, Tiopronun thường được dùng
để làm giảm cystine. Nên uống nhiều nước. Khi
sạn gây ra nhiễm trùng đường
tiểu tiện, thuốc
kháng sinh được dùng trước khi
sạn được lấy ra. c-
Nghiền sạn bằng sóng lực trong nước
(Shock wave lithotripsy): Đây là phương pháp
trị liệu tương đối mới,
được sáng chế bên Tây Đức và
bắt đầu dùng ở Hoa Kỳ từ năm
1984. Có
nhiều loại máy nhưng nguyên tắc chung
giống nhau: máy tạo ra những đợt sóng
lực có sức mạnh làm rạn nứt, tan
vỡ sạn mà không gây thương tích cho cơ
thể. Phương pháp này được áp
dụng cho trường hợp sạn nằm
ở thận hoặc phần trên của ống nước
tiểu. Người
bệnh nằm trên một cái nệm nước
hay trong bể nước, các đợt sóng có
sức mạnh chuyển qua nước, dội vào
nơi có sạn. Trung b́nh cần từ 200 tới
400 đợt sóng để làm vỡ sạn,
đôi khi cần tới 1500 đợt. Thời
gian chạy máy lâu khoảng một giờ. Phương
pháp có thể
thực hiện trong ngày, sau vài giờ theo dơi,
bệnh nhân có thể về nhà. Thường thường
không cần đánh thuốc mê, nhưng để
bớt đau, bệnh nhân được cho
liều thuốc an thần. Bệnh nhân cũng
mang máy bịt tai để tránh âm thanh to do sóng
lực gây ra. Khi
về nhà, cần uống nhiều nước,
đi tới đi lui, tiểu tiện ngay khi mót
đái, lọc nước tiểu để theo dơi
sạn ra nhiều hay ít. d-
Giải phẫu. Khi các phương pháp trên không
có kết quả th́ nhiều phương thức
giải phẫu được áp dụng và
bệnh nhân cần được nhập
bệnh viện. Pḥng
ngừa lâu dài Mỗi
lần đau sạn là một kỷ niệm
đáng ghi nhớ. Cho nên để tránh sạn tái
phát, người bệnh cần biết cách pḥng
ngừa, gồm có: a-
Uống nhiều nước để tránh t́nh
trạng thiếu nước trong cơ thể,
khiến nước tiểu cô đặc tạo
ra cơ hội thuận tiện cho sạn kết
tinh, đóng cục. Có bác sĩ khuyên phải
uống chừng 10 ly nước một ngày.Tránh
chất lỏng làm mất nước trong cơ
thể như cà phê, rượu. Nhưng khi đau
là lúc sạn di chuyển trong ống th́ không nên
uống nước. Sạn có thể làm kẹt
niệu quản , đưa tới ph́nh nở các
khoang ở thận. b-
Ăn kiêng: sạn được cấu tạo
bởi hóa chất có trong vài thực phẩm, nên
ta cần tránh. Khi bị sạn calcium, ta cần
giảm thiểu thực phẩm nhiều calcium như
bơ sữa, chocolate, đậu phọng; với
sạn uric acid th́ ta cần bớt ăn thịt v́
thịt làm tăng purine, tiền thân của acid này;
c̣n sạn cystine th́ cần giới hạn cá v́ cá
có nhiều chất cystine. c-
Uống thuốc theo toa bác sĩ và giữ hẹn
để được theo dơi t́nh trạng
sạn. Sự theo dơi này cần thực hiện
hầu như suốt đời. Dinh
dưỡng với bệnh sạn thận Người
bị sạn thận thường rất quan tâm
tới vấn đề ăn uống. Họ chán
ngán với cảnh lâu lâu lại bị cơn
đau gắt khi sạn di chuyển nên muốn
biết phải ăn kiêng khem ra sao cho sạn
khỏi tái phát. 1-Sạn
calcium oxalate. Trước
đây người bệnh thường được
khuyên bớt
ăn thực phẩm chứa
nhiều calcium để giảm nguy cơ
sạn thận. Nhưng thực ra, sự liên
hệ không hoàn toàn như vậy. Cao calcium trong nước
tiểu có thể không phải hoàn toàn v́
nhiều calcium trong
máu. Một
vài bệnh như chứng Tăng
Chức Năng Tuyến Cận Giáp (
Hyper-parathyroidism), rối loạn
dư thừa sinh
tố D, u bướu xương, bệnh
sarcoidosis đều
làm tăng calcium trong máu và đều là nguyên nhân
đưa tới sạn trong thận. Chữa
những bệnh này sẽ
làm giảm calcium trong máu và nước
tiểu. Nhiều
khi calcium trong nước tiểu cao là do sự
hấp thụ từ thực phẩm
trong một
vài bệnh của ruột
( Crohn' disease, suy tụy tạng) hoặc
khi dùng quá
nhiều sinh tố C ( sinh tố này được
biến hóa ra oxalate) hoặc do thận rỉ
calcium ra ngoài. Nếu
là do hấp thụ từ ruột th́ sự
hạn chế thực phẩm có
oxalate calcium giúp ích
cho việc điều trị. Thực phẩm có
nhiều oxalate là rau spinach, quả dâu, súc cù là,
quả hạch ( nuts), trà. Nhiều
chuyên gia khuyên cắt bớt sự tiêu thụ
calcium. Nhưng xin cẩn thận lấy ư kiến
của bác sĩ trước, v́ hạn chế quá,
cơ thể sẽ rút calcium ở xương và
làm xương suy yếu, dễ gẫy.Có ư
kiến khác cho là sự giới hạn này có
thể làm tăng nguy cơ bị sạn oxalate, v́
calcium cao sẽ giúp
gia tăng sự
hấp thụ oxalate trong ruột và giảm
sạn oxalate trong nước tiểu. 2-Sạn
uric acid. Uric
acid là do sự chuyển hóa của chất purine
trong chất đạm động vật và
một số thực phẩm khác mà ra. Uric acid
trong nước tiểu cũng lên cao ở người
bị bệnh thống phong (gout), khi uống
nhiều thuốc Aspirin, Probenecid. Do đó, khi hạn chế thực phẩm có
nhiều purine sẽ
làm giảm nguy cơ sạn này rất nhiều. Thực
phẩm có nhiều purine là: gan , óc, tim, thận
động vật; cá herring, sardine; bia, rượu
vang; thịt, đậu , rau cauliflower, nấm, rau
spinach, tôm cá. 3-Sạn
struvite gồm
các hóa chất ammonium, magnesium và phosphate. Và thường
thấy ở nữ giới. Bệnh thường
do nhiễm vi khuẩn đường tiểu
tiện với các loại Proteus hoạc Klebsiella,
khiến chất urea phân hóa thành các tinh thể
ammonium Tinh thể tụ lại với nhau và
đưa tới sạn thận. Bệnh
sạn này thường được chữa
bằng thuốc kháng sinh để loại
trừ nhiễm
trùng hoặc bằng giải phẫu. Dinh dưỡng
không có vai tṛ ǵ trong loại sạn này. Kết
luận Trong
tất cả các trường hợp sạn
bộ máy tiết niệu, số lượng nước
tiêu thụ hàng ngày có
một vai tṛ rất quan trọng. Nước
uống làm nước tiểu loăng và ngăn
ngừa các tinh thể gây sạn kết tụ
với nhau. Cho nên, mỗi ngày, người bị
bệnh sạn thận
cần uống ít nhất tám ly nước
hoặc nhiều hơn. Xin
lưu ư là một
số thực phẩm làm thay đổi mức
độ kiềm hoặc acid của nước
tiểu ( chỉ số pH) và có ảnh hưởng
tới sự kết tinh các hóa chất trong
sạn thận. Rau,
trái cây( ngoại trừ trái prune, plumbs, cranberries),
sữa, làm nước
tiểu có độ kiềm. Thực
phẩm có nhiều chất đạm như
thịt, cá, trứng, pho mát; trái plumb, prunes,
cranberries, ngô báp, đậu lentils
làm nước tiểu có độ acid. Ngoài
ra, kinh nghiệm các cụ ta là nước sắc
rễ đu đủ, nước ngô và râu ngô
luộc, nước sắc cây râu mèo cũng
được dùng để tiêu sạnỉ Xin
quư thân hữu thử coi xem có công hiệu khôngỉ
Vừa rẻ tiền vừa
không sợ tác dụng phụ của hóa
chất trong dược phẩm. Bác
sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC Texas-USA
|