|
Câu Chuyện Thầy Lang : Điều trị ung thư BS Nguyễn Ư Đức Hiện nay có ít nhất bốn phương pháp để điều trị ung thư: giải phẫu, xạ trị, hóa trị và miễn dịch trị liệu immunotherapy. Mục đích các phương pháp này là tiêu diệt tế bào ung thư mà cố gắng không gây tổn thương cho tế bào b́nh thường. Phương pháp có thể dùng riêng rẽ hoặc phối hợp với nhau. Tiến bộ về kỹ thuật đă tăng hiệu quả và an toàn của các phương pháp và nhiều bệnh nhân đă được cứu sống.
Khi một ung thư đă
được xác định và có khả năng
chữa được th́ bác sĩ phải
thảo luận với bệnh nhân về
tất cả các phương thức trị
liệu có thể mang ra dùng. Hỗ trợ tinh
thần bằng tâm lư trị liệu rất quan
hệ. Đôi khi bệnh nhân cũng cần
được hướng dẫn về các
trị liệu hứa hẹn nhiều hơn là
có thực lực, để tránh tiền
mất tật mang và chậm trễ trong việc
chữa bệnh.
1-Giải phẫu.
Giải phẫu là phương
pháp điều trị cổ điển
nhất nhưng cũng rất công hiệu đặc
biệt là với ung thư thu gọn ở
một phần nào đó của cơ thể.
Khi giải phău, tế bào ung thư được
lấy đi càng nhiều càng tốt. Đôi khi
tế bào lành cũng được cắt
bỏ để chắc chắn là tế bào ung
thư lẫn vào đă được loại
hết.
Hiệu quả tùy
thuộc vào một số yếu tố:
a-U bướu thu gọn
ở một chỗ và chưa di căn;
b-Tế bào ung thư tăng
sinh chậm;
c-Vị trí của u bướu;
d-Khả năng chuyên môn
của phẫu thuật gia;
e-Công hiệu của các
dịch phụ hỗ trợ như thuốc mê,
kiểm soát ngừa nhiễm trùng, tiếp máu,
dụng cụ giải phẫu và chăm sóc sau
khi mổ,
2-Xạ trị
Đây là phương
tiện thường dùng. Quá nửa các loại
ung thư được chữa bằng xạ
trị đặc biệt là ung thư đầu,
cổ, phổi, bọng đái. Thường thường
radiation được dùng cho ung thư không
chữa được bằng giải phẫu
hoặc khi đă giải phẫu mà có e ngại
ung thư tái phát
Sự thành công tùy
thuộc vị trí của ung thư, ung thư có
mẫn cảm sensitive với phóng xạ; u thu
gọn và không di căn.
Mục đích xạ
trị là để tiêu diệt tế bào
nổi loạn và làm teo u khối bằng các làn
sóng hoặc phân tử như proton, electron, x-ray,
gamma -ray
Có hai cách xạ trị:
a) Đưa hẳn vào u ung thư.
Chẳng hạn sau khi mổ th́ radiation chứa
trong vật đựng được đặt
ngay ở nơi mổ;
b)Dùng máy để hướng
radiation vào u bướu và tế bào ở xung
quanh;
Xạ tác tiêu diệt
hữu hiệu trên tế bào ung thư tăng trưởng
nhanh hơn là tế bào thường tăng sinh
chậm.
Xạ được
đưa vào cơ thể với phân lượng
rất nhỏ trong ṿng ba hoặc bốn tuần
lễ để có tác dụng mạnh lên
tế bào ung thư và giới hạn ảnh hưởng
lên tế bào lành. Nếu chẳng may bị
tổn thương th́ tế bào b́nh thường
cũng mau lành.
Công hiệu của xạ
trị liệu tùy thuộc phương pháp áp
dụng. Tác dụng phụ thông thường là
mệt mỏi, thay đổi trên da, ăn
mất ngon.
Có điều là chi phí
điều trị khá tốn kém, tùy theo điều
trị nhiều hay ít.
3-Hóa trị
Được dùng khi ung thư
đă lan ra ngoài vị trí ban đầu hoặc
khi có di căn ở nhiều địa điểm.
Phương pháp sẽ hữu hiệu hơn
nếu ung thư nhạy cảm với hóa
chất; bướu c̣n nhỏ; khi bệnh nhân
khỏe mạnh, có sức chịu đựng
với tác dụng ngoại ư của thuốc.
Có nhiều loại hóa
chất khác nhau. Mỗi hóa chất có tác
dụng riêng biệt với từng ung thư
bằng cách làm ngưng sự phân chia và sinh
sản của tế bào phản loạn. Khi không
có sự phân bào th́ tế bào tan vỡ, u bướu
teo lại.
Hóa trị đă cứu
sống rất nhiều bệnh nhân và cũng giúp
nhiều người khác giảm bệnh.
Không như xạ trị
hoặc giải phẫu đ̣i hỏi ung thư
thu gọn, hóa trị có thể phân tán khắp
cơ thể để tiêu diệt tế bào ung
thư ở các nơi mà bác sĩ không t́m
ra.
Thuốc có thể uống
nhưng đa số là truyền qua tĩnh
mạch.
Tác dụng phụ thường
thấy là ói mửa, rụng tóc, mệt
mỏi, dễ nhiễm trùng, thiếu hồng
huyết cầu.
4-Miễn dịch
trị liệu
Nói đến điều
trị ung thư ta thường nghĩ ngay
tới tiêu diệt tế bào bệnh hoạn
bằng hóa chất, phóng xạ hoặc dao kéo
giải phẫu. Các phương pháp này rất
công hiệu nhưng cũng gây tổn thương
cho tế bào lành.
Miễn dịch trị
liệu không ảnh hưởng tới tế bào
lành nhưng rất hữu hiệu trong việc
tiêu diệt tế bào nổi loạn. Mục
đích của trị liệu này là tăng cường
khả năng chống trả với bệnh
tật của cơ thể, tăng sức
chịu đựng của bệnh nhân với tácdụng
ngoại ư của hóa trị, xạ trị đồng
thời ngăn ngừa sự phát triển
tế bào ung thư.
Phương pháp này
hiện nay đang được nghiên cứu
kỹ càng và có nhiều triển vọng sáng
sủa cho người bệnh.
Trị
liệu mới cho Bốn Ung Thư Hiểm nghèo
Với các bệnh ung thư
nguy hiểm, y khoa học đă cống hiến
nhiều phương pháp trị liệu khá công
hiệu. Nhưng những phương tiện này
cũng tạo ra một số tác dụng
xấu mà người bệnh phải cam
nhận.
Sau một giải phẫu, một trị
liệu bằng hóa chất, phóng xạ,
nhiều bệnh nhân rơi vào t́nh trạng
mất khẩu vị ăn uống, ói mửa,
mệt mỏi, suy nhược, tóc rụng, da khô.
Đó là do ảnh hưởng của các
trị liệu được tung vào người
bệnh với hy vọng là sẽ tiêu diệt
được nhiều tế bào ung thư hơn
là tế bào lành.
Gần đây, đă có
nhiều phát minh mới để trị ung thư
một cách chính xác hơn, tập trung vào
những tế bào nổi loạn. Các phương
pháp này dựa trên sự hiểu biết
cặn kẽ về đặc tính của
tế bào ung thư, yếu điểm của chúng
và hướng sự trị liệu vào chúng mà
tiêu diệt, thay v́ làm hại oan tới tế bào
tốt.
Hiện nay đă có
một số phương tiện trị
liệu mới nhắm vào bốn loại ung thư
hiểm nghèo là ung thư phổi, ung thư vú,
ung thư tuyến nhiếp và ung thư ruột
già.
1-Ung thư
Phổi.
Đây là loại ung thư
gây ra tử vong rất cao, bằng tổng
số tử vong của các ung thư ruột già,
nhiếp tuyên và vú.
Tế bào ung thư
phổi rất đa dạng gây ra do nhiều
nguyên nhân khác nhau, nên không một phương
thức trị liệu đơn độc nào
có thể hoàn toàn khống chế được
chúng. Các khoa học gia đang thử nghiệm
một số trị liệu mới như sau:
a-Phóng xạ trực
tiếp (Directed radiation)- Dưới sự hướng
dẫn của X quang cắt lớp ( CAT scan) và máy
vi tính, tia phóng xạ sẽ được
đưa trực tiếp tới vị trí
của các tế bào ung thư mà tiêu diệt. Phương
pháp này, gọi là IMRT (intesity modulated radiation
therapy), có thể đưa một số phóng
xạ nhiều gấp bốn hoặc tám lần
tới các tế bào ung thư mà không gây
hại ǵ cho tế bào b́nh thường ở
chung quanh.
IMRT hiện đang
được sử dụng ở nhiều trung
tâm trị liệu, và cũng được dùng
để trị ung thư nhiếp tuyến, ung
thư đầu và cổ, ung thư dạ
dầy, bao tử.
Tác dụng không tốt
gồm có tiêu chẩy, tiểu tiện gắt, kích
thích khó chịu ở ruột già và bọng
đái.
b-Dược phẩm
trị ung thư để hít vào phổi (Inhaled
cancer drugs).- Giống như thuốc hít
chữa bệnh suyễn, thuốc trị ung thư
này được hít trực tiếp vào
phổi để truy lùng tiêu diệt tế bào
ung thư. Một trở ngại là thuốc
sẽ chỉ tập trung ở hai lá phổi
chứ không phân tán đi khắp cơ thể.
Thuốc đang ở trong
giai đoạn thử nghiệm và hy vọng
sẽ sớm được áp dụng..
c-Những trái bom tinh nhanh
(Smart Bombs)- Hai loại thuốc mới đang
chờ đợi cơ quan Thực Phẩm &
Dược Phẩm Hoa Kỳ chấp thuận
để trị ung thư phổi, ung thư
ruột già, vú, nhiếp tuyến, tụy
tạng. Đó là thuốc Iressa và Tarceva. Dược
phẩm này chuyên đi t́m các tế bào ung thư
và chặn sự tăng sinh của chúng, làm u bướu
ung thư nhỏ đi. Thuốc tác dụng
trực tiếp trên tế bào ung thư nên gây
rất ít thiệt hại cho tế bào lành.
2-Ung thư Vú.
Theo Hội Ung Thư Hoa
Kỳ, hàng năm có khoảng trên 200.000 trường
hợp ung thư vú được phát hiện và
số tử vong lên tới trên 40.000 người.
Các phương thức trị liệu mới
gốm có:
a-Dược phẩm làm ngưng
sự tăng trưởng tế bào ung thư
như Tarceva và Herceptin.
Phối hợp với hóa
trị liệu, Herceptin được coi như
có nhiều hy vọng tránh tử vong cho người
bệnh. Thuốc này đă được công
nhận, c̣n Tarceva th́ khoảng vài năm nữa
là được sản xuất.
b-Thuốc kiềm chế kích
thích tố estrogen. V́ có nhiều liên can tới
ung thư vú, nên kiềm chế tác dụng
của estrogen là muc tiêu của vài dược
phẩm mới như Arimidex và Femara. Các
thuốc này hiện giờ đang được
sử dụng.
c-Làm đông lạnh u ung
thư . Dùng tia laser hoặc sóng vi ba với cường
độ cao, đưa thẳng vào u ung thư
để tiêu hủy nó. Phương pháp này có
thể làm tan biến u ung thư nhỏ dưới
3/8 inc và thực hiện mau lẹ, bệnh nhân
về nhà ngay ngày hôm sau.
Phương pháp đă
được dùng để trị ung thư
gan; trong dăm ba năm sẽ được áp
dụng cho ung thư vú, phổi và có thể cho
cả ung thư nhiếp tuyến.
3-Ung thư
Nhiếp tuyến.
Đây là loại ung thư
xẩy ra nhiều nhất ở đàn ông. Hàng
năm bên Mỹ có khoảng gần 200.000 trường
hợp ung thư mới phát hiện và số
tử vong cũng khá cao: khoảng 30.000 mỗi năm.
Cho tới nay, hóa trị
đă được áp dụng nhưng không công
hiệu lắm mà phẫu thuật lại hay gây
ra loạn cương dương và sự không
kiềm chế tiểu tiện ( incontinence), gây
bất tiện cho bệnh nhân.
Các phương thức
trị liệu mới đang được
thử nghiệm và tương lai có vẻ sáng
sủa hơn:
ạ Gieo mầm phóng
xạ (radiation seeds). Dưới sự hướng
dẫn của màn ảnh siêu âm (ultra sound scan),
một đầu kim chích chứa một lượng
phóng xạ được đưa vào u ung thư
và làm teo u này.
Phương pháp được
giới thiệu là rất chính xác, không làm
hại ǵ tới tế bào lành ở chung quanh.
Khi dùng chung với giải phẫu, phương
pháp này có khả năng trị tuyệt từ
60 tới 90% tế bào ung thư nhiếp
tuyến.
b-Giải phẫu mà không gây
liệt dương. Trong phương pháp này, sau
khi cắt bỏ nhiếp tuyến và giây
thần kinh điều khiển sự cương
dương, nguờ́ ta lấy một đoạn
giây thần kinh ở dưới cổ chân,
cấy nơi bẹn để thay thế cho giây
thần kinh đă bị cắt bỏ. Phương
pháp đang ở trong ṿng thử nghiệm ở
Viện ung thư MD Anderson, Texas. Hy vọng là
trong vài năm sẽ được hoàn
chỉnh và được mang ra sử dụng
để tránh cho người bệnh khỏi
bị liệt dương v́ giải phẫu
cứu sống.
4-Ung Thư
Ruột già.
Đây là loại ung
thư đứng hàng thứ tư ở cả
nam lẫn nữ giới. Mỗi năm bên
Mỹ có khoảng 150.000 ca mới. Số tử
vong khoảng 55.000 người.
a-Phối hợp Xạ
trị và Giải phẫu. Trong phương pháp
này, khi giải phẫu th́ xạ liệu cũng
được dùng song hành để tiêu
diệt tế bào ung thư. Xạ liệu
được đưa tới trực tiếp
tế bào bệnh nên không ảnh hưởng ǵ
tới tế bào lành. Phương pháp rất
tốt khi ung thư giới hạn ở ruột
chứ khi đă lan ra các cơ quan lân cận th́
quá trễ. Nhiều trung tâm ung thư đă áp
dụng phương pháp này.
b- Bỏ đói ung thư
(Starving tumors). Tế bào ung thư chỉ tăng
sinh khi được nuôi dưỡng đầy
đủ. Nếu ta ngăn chặn sự nuôi dưỡng
này từ các mạch máu th́ tế bào sẽ
chết đói, ung thư ngưng phát triển.
Đó là chủ đích của các dược
phẩm Avastin, Endostatin, chặn sự phát
triển của các mạch máu trong u ung thư.
Kết
luận
Ngày nay, y khoa học đă
mang lại nhiều hy vọng cứu sống cho
các nan bệnh ung thư.
Bệnh nhân cũng có
thể t́m tới các loại cây con mà loài người
có kinh nghiệm về trị bệnh từ lâu.
Đông y ta đă từng dùng lá đu đủ,
nấm linh chi, dây tóc tiên, cây rẻ quạt,
bạch truật, nam sa sâm, ư dĩ vân vân và
đă có trường hợp ung thư thuyên
giảm. Có bệnh th́ vái tứ phương mà.
Nhưng có lẽ
chỉ nên t́m tới các món này khi mà các phương
tiện khoa học hiện có bó tay hoặc dùng
phụ thêm nếu không có chống chỉ định.
V́ dù sao th́ các phương tiện thực
nghiệm cũng đă được chứng
minh sự hữu hiệu, chẳng trăm
phần trăm th́ cũng dăm bẩy chục
phần trăm.
Ngoài ra, t́nh trạng tâm trí
cũng có ảnh hưởng tới việc
điều trị ung thư và các nan bệnh khác.
Một hiểu biết cặn kẽ về
bệnh tật, một thái độ tích
cực, một thư giăn tâm hồn làm tăng
khả năng miễn dịch của cơ
thể để đối phó với khó khăn.
Như giải phẫu gia
Berbard S. Siegel, Đại học Y khoa Yale nhận xét:
“Thể chất đáp ứng với các tín
hiệu từ trí óc, một cách ư thức
hoặc vô ư thức.Các tín hiệu này có
thề là “sinh” hoặc “tử”. Tôi nghĩ
là con người không những chỉ có
bản năng sinh tồn mà c̣n bản năng
tự hủy. Bản năng tự hủy
khiến cơ thể ngưng sự tự
vệ, giảm hoạt động các chức năng,
đưa ta tới tử địa khi chúng ta
nghĩ là đời không c̣n đáng sống
nữa”.
Bác sĩ
Nguyễn Ư Đức
Texas-Hoa Kỳ
|