Câu Chuyện Thầy Lang
Đau Tim, Tức Ngực
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Trong suốt cuộc đời, thế nào chúng ta cũng có lúc ôm ngực
kêu đau.
Có
người th́ hơi đau một chút đă hoảng hốt la làng là đang bị
cơn-đau-tim và vội vàng kêu xe cấp cứu. Ngược lại th́ cũng có người
mặt xanh như tầu lá, ngực nhói đau th́ lại bảo v́ ăn không tiêu,
uống vài viên chống acit là ổn.
Cả hai
thái độ coi bộ đều cần được xét lại.
Thành
ra, thêm một chút hiểu biết về những cơn đau từ ngực tưởng cũng
không phải là dư.
Lồng ngực
Ngực
là khoảng trống trước của cơ thể, nằm giữa cổ và hoành cách mô.
Các
xương của ngực kết hợp với nhau thành một cái chuồng h́nh nón.
Mười
hai xương sườn là chấn song của lồng ngực. Xuơng sườn nối với xương
ức ở phía trước và các đốt sống ở phía sau.
Giữa
các xương sườn là khoảng cách liên sườn, trong đó có dây thần kinh,
mạch máu và cơ.
Lồng ngực bao bọc và che chở cho hai lá phổi, trái tim,
thực quản và các bộ phận phụ thuộc.
Thực
quản là ống dẫn thực phẩm từ miệng xuống bao tứ, nằm sau xương ức.
Từ
trái tim đi ra là động mạch chủ, chạy dọc xuống dưới, phân phối máu
đỏ có nhiều dưỡng khí để nuôi tế bào.
Tĩnh
mạch chủ chạy từ phía dưới cơ thể lên tim, chuyển máu có nhiều khí
carbon, rồi lên phổi để đổi lấy dưỡng khí.
Dưới lồng ngực là xoang bụng chứa các bộ phận như dạ dày,
ruột già ruột non, gan, lá lách, tuyến tụy, thận, bọng đái. Các bộ
phận này nằm sát ngay dưới lồng ngực.
Ngực
và bụng ngăn cách nhau bằng cơ hoành. Khi áp xuất trong bụng tăng,
các bộ phận này cũng ép lên lồng ngực.
Với sự sắp đặt như vậy, cơn đau ngực có thể là từ nhiều
cơ quan khác nhau, chứ không riêng ǵ từ trái tim.
1-Đau
không từ trái tim
a.
Bệnh của túi mật như viêm hoặc sỏi mật đôi khi cũng gây đau tương tự
như cơn đau của tim.
b.
Chứng ợ chua với chất acit từ bao tử trào ngược lên thực quản, tạo
ra cảm giác nóng cháy sau xương ức.
c.
Viêm màng bọc hai lá phổi v́ sưng phổi gây ra cảm giác đau, nhất là
khi ho hoặc hít thở mạnh.
d. Đau
khi gẫy nứt xương sườn hoặc viêm lớp sụn nối tiếp xương sườn với
xương ức.
e. Đau
nhức các cơ liên sườn hoặc khi dây thần kinh bị kẹp.
g. Đau
ngực trong các bệnh phổi như phổi tràn khí phế mạc (pneumothorax),
hen suyễn, nghẽn động mạch phổi.
h.
Trong bệnh zona do virus thủy đậu gây ra, đau nhức từ sau lưng tới
lồng ngực kèm theo một dải những mụn nước.
i.Nuốt
nhiều không khí khi vội vàng ăn hoặc uống nước có hơi hoặc uống với
ống hút. Không khí làm căng bao tử, tạo ra cảm giác đau đau ở phía
trái bụng dưới.
Người
đang tức giận bực ḿnh cũng nuốt nhiều hơi trong khi ồn ào, hổn hển
diễn tả lời nói.
k.Nằm
ngủ với cánh tay, bả vai ở vị thế bất b́nh thường cũng đưa tới đau
ngực.
l.Trong cơn hoảng sợ, tim đập nhanh, hơi thở dồn dập, đổ mồ hôi, hụt
hơi thở cũng thường có cơn đau trước ngực.
2-Đau
từ trái tim
Đau
từ trái tim cũng có nhiều loại:
a-Cơn-đau-thắt-ngực,
tiếng Anh gọi là angina pectoris. Angina có nghĩa đau như co thắt,
xiết chặt trái tim lại (constricting pain). Pectoris là lồng ngực.
Năm
1768, bác sĩ người Anh William Heberden là người đầu tiên tả cảm
giác này một cách ngắn gọn, linh động như sau: “Người bị cơn đau
thắt ngực hành hạ khi đang đi lên một con đường dốc hoặc sau khi ăn
no. Đau rất khó chịu tưởng như có thể chết đi được nếu cơn đau cứ
tiếp tục. Nhưng may mắn là khi người đó nghỉ th́ cơn đau hết tức th́”.
Đau
của angina cho cảm giác như co thắt toàn thể hoặc phần ngực nằm sau
xương ức, lan lên cổ, hàm, má, bả vai, cánh tay và xuống cả vùng
giữa bụng hoặc giữa hai xương bả vai.
Đau
thắt ngực thường xảy ra khi ta leo lên một ngọn đồi hoặc bước những
bậc cầu thang lên lầu, khi đi trong gió lạnh, mang vật nặng, cào lá,
làm vườn, xúc tuyết, vươn ḿnh chạy đỡ đường banh quần vợt, đang coi
một truyện phim nhiều kích động, đôi khi cả trong lúc hấp dẫn giao
hợp hoặc những cơn thịnh nộ, lo âu. Cũng có trường hợp đang ngủ, cơn
đau xuất hiện đánh thức nạn nhân bừng dậy ôm ngực nhăn nhó.
Mỗi
cơn đau như vậy kéo dài không quá 10 hoặc 20 phút và hầu như chầm
dứt khi ta ngưng hoạt động đă gây ra cơn đau. Hoặc đặt dưới lưỡi một
viên nitroglycerin. Và khi được hỏi đau ở đâu th́ hầu như mọi người
đều chỉ vào ngực với cả bàn tay chứ không với một ngón tay.
Tại
sao có cơn đau thắt ngực như vậy?
Thưa
đau là tiếng kêu cứu, phản kháng của trái tim bị bỏ đói, thiếu dưỡng
khí mà c̣n bị lạm dụng bóc lột sức lao động quá mức.
Với
kích thước bằng nắm tay, trái tim co bóp liên tục ngày đêm 70 lần
trong một phút để bơm ra, hút vào một lượng máu khổng lồ là 6 tấn
máu vào cả ngàn cây số mạch máu mỗi ngày.
Để
hoàn tất nhiệm vụ của một cái bơm, các cơ của tim cần được nuôi
dưỡng với oxy. Động mạch vành lănh trách nhiệm nuôi dưỡng này.
Động
mạch vành có hai nhánh chính trước và sau tim và các nhánh phụ bao
phủ toàn bộ trái tim như một cái vương miện. B́nh thường, tim và
động mạch có khả năng thích nghi, làm việc nhiều hơn một chút để đáp
ứng nhu cầu dinh dưỡng khi cơ thể hoạt động mạnh mẽ hơn.
Động
mạch vành có đường kính khoảng từ 2-3 mm, vừa đủ rộng để chứa một
chiếc que diêm.
Nhưng
khi động mạch vành bị thu hẹp, sự nuôi dưỡng cơ tim giảm đi. Cơ tim
gào thét bằng những cơn đau, để báo động cho con người là họ đang
trong t́nh trạng hiểm nghèo.
Thu
hẹp thông thường của động mạch là do những mảng chất béo cholesterol
bám vào thành động mạch vành. Cholesterol cần cho cơ thể, nhưng chỉ
ở mức độ vừa phải. Nếu cao quá th́ chúng phải kiếm chỗ để dung thân.
Mà gần nhất là ở ngay các động mạch mà chúng đang lưu hành. Đó là sự
Vữa Xơ Động Mạch (Atherosclerosis).
Khởi
thủy là lớp màng lót của một chỗ nào đó trong động mạch trở nên mềm
rồi một thời gian sau cứng lại. Cholesterol bắt đầu bám vào đó, mỗi
ngày mỗi cao hơn. Khoáng chất calci trong máu cũng nhân cơ hội táp
vô, làm mảng cứng, khó tan.
Diễn
tiến của sự vữa xơ rất chậm, có khi cả năm và không có triệu chứng
báo hiệu. Con người vẫn “vô tư” ăn uống, với nhiều chất béo
cholesterol rất ngon miệng trong món ăn. Ḷng động mạch thu hep dần
dần và khi đường kính động mạch giảm tới 75% th́ chuyện chẳng lành
xảy ra. Đó là cơn đau-thắt-ngực, angina.
Mỗi
cơn đau tại một vùng cơ thể là một lời cảnh cáo, một báo hiệu có
hiểm nguy, khó khăn đâu đó. Để con người biết mà đề pḥng, đối phó,
chữa trị.
Trái
tim thiếu nuôi dưỡng, làm việc quá sức và kêu đau. Nếu ngưng nguyên
nhân gây đau, tim dịu xuống, hết nhăn nhó.
Cũng
có một số trường hợp, vữa xơ không đưa tới cơn đau thắt ngực. Đó là
ở những người mà động mạch vành thu hẹp đă tạo ra được vài mạch máu
bên lề (collateral), ṿng qua đường hẹp tắc, dẫn máu nuôi tim.
Hiện
tượng vữa xơ cũng thấy ở các động mạch nuôi thận, nuôi năo, nuôi
ruột, nuôi tứ chi.
Ở năo,
vữa xơ gây ra tai biến năo (stroke). Ở thận đưa tới suy thận, phải
lọc máu, thay thận. Ở chân đưa tới khập khiễng cách hồi (clauditation
intermittant) với đau bắp vế khi đi, khi chạy, hết đau khi ngồi khi
nghỉ…
Những
rủi ro đưa tới vữa xơ là cao huyết áp, béo ph́, cao cholesterol
trong máu, ph́ phèo thuốc lá luôn miệng, tiểu đường, không vận động
cơ thể, căng thẳng tâm thần…
Để xác
định cơn-đau-thắt-ngực, bác sĩ cần t́m hiểu y sử người bệnh, hoàn
cảnh nào angina xảy ra, cơn đau như thế nào, thường thường nạn nhân
làm ǵ để giảm cơn đau.
Rồi
khám tổng quát, nghe nhịp tim, đo điện tâm đồ khi bệnh nhân nghỉ và
sau khi bệnh nhân bước lên chục bực thang hoặc đi trên máy đi bộ
(treadmill).
Angina
thường thường giảm hết sau khi ngưng động tác gây ra nó hoặc sau khi
dùng nitroglycerin.
Nitroglycerin
là dược phẩm có tác dụng trị liệu rất lớn và thường được dùng để
loại bỏ cấp kỳ cũng như giảm tần số và pḥng tránh các cơn angina.
Thuốc
làm giăn mở động mạch vành, khiến cho máu lưu thông tới tim nhiều
hơn để giải tỏa cơn đau kêu gào thiếu dưỡng khí của cơ tim. Thuốc
cũng làm giăn mở mạch máu toàn thân, nhờ đó tim cũng bớt phải co bóp
mạnh hơn để bơm máu ra.
Thuốc
được đặt dưới lưỡi để tự tan ngấm váo máu và tác động tức th́. Nhớ
đừng nhai đừng nuốt nitroglycerin.
Cũng
có loại nitroglycerin dạng mỡ thoa trên ngực với tác dụng kéo dài
vài giờ.
Dùng
thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ. Nếu viên đầu không thấy công hiệu,
có thể dùng thêm một viên nữa. Và nếu cơn đau không giảm sau khi
dùng thuốc 15 phút, nên cho bác sĩ hay ngay.
Cơn
đau liên tục xẩy ra cần được điều trị tại nhà thương, v́ rất có thể
là ta bị cái đau của cơn-đau-tim, Heart attack.
Để
được an toàn, nên nghĩ tới heart attack khi angina không thuyên giảm
với nghỉ hoặc với hai ba viên nitroglycerin.
Cũng
nghĩ tới heart attack nếu chưa bao giờ bị angina mà bây giờ chợt bị
đau nơi ngực, không bớt khi ngưng công việc đang làm.
b-Cơn-đau-tim
Trên
đây là đau-nghỉ-hết đau.
Bây
giờ là đau, nghỉ cũng chẳng hết mà lại có nhiều nguy cơ nghỉ luôn
trong ḷng đất. Đó là cơn-đau-tim, heart attack.
Heart
attack cũng báo hiệu bằng cơn đau trước ngực, đau như trái tim bị
kẹp giữa hai ngàm của chiếc máy ép nước mía, kéo dài nhiều giờ và
không thuyên giảm cho tới khi được cấp cứu (với morphine). Đau cũng
xuất hiện ở vùng trên bụng, lan lên cổ, ra hai vai, tới cánh tay và
có khi ṿng ra sau lưng.
Bệnh
nhân ở trong t́nh trạng lo sợ, toát mồ hôi lạnh, mặt xanh như tàu lá,
ợ hơi (belching), ọe khan hoặc ói mửa. Thêm vào đó là cảm giác hụt
hơi thở, hổn hển ngáp ngáp không khí, tim đập nhanh.
Ở nữ
giới và lăo niên, các dấu hiệu nhiều khi không rơ rệt, chỉ cảm thấy
mệt mỏi, yếu sức khiến cho họ không nhận ra là đang trong cơn hiểm
nghèo.
Nguyên
do đưa tới heart attack cũng bắt nguồn từ những mảng cholesterol
trong động mạch. Tới một lúc nào đó, một mảnh của mảng này tách ra,
tạo thành ra một máu cục, di chuyển tới động mạch tim và hoàn toàn
gây tắc nghẽn sự lưu thông máu tới nuôi tế bào tim. Tế bào chết v́
thiếu oxy, mà y học gọi là nhồi-máu-cơ-tim (myocardial infarction).
Ngoài
ra, heart attack cũng gây do một số nguy cơ khác như gia đ́nh có
người bị nan bệnh này, do hút nhiều thuốc lá, do cao huyết áp, tiểu
đường, lạm dụng thuốc cấm cocaine…Đáng tiếc là trong nhiều trường
hợp, các rủi ro này kết cấu với nhau để gây ra thiệt hại cho trái
tim và đưa tới heart attack.
Xác
định heart attack bằng khám tổng quát, đo điện tâm đồ, chụp x-quang
tim và thử máu t́m mức độ men tế bào tim. Khi tế bào tim bị hủy hoại,
chúng nhả ra những enzyme và tế bào càng chết nhiều th́ enzyme trong
máu càng cao.
Cơn-đau-tim là một cấp cứu y khoa v́ tử vong có thể xảy ra trong vài
chục phút. Nhiều người thiệt mạng trước khi tới bệnh viện v́ họ coi
thường các dấu hiệu báo động.
Bệnh
nhân thiệt mạng phần lớn là do rối loạn nhịp tim. Nhịp tim nhanh
loạn xạ (tachycardia), rung tim thất (ventricular fibrillation) đưa
tới tim rung rinh (quivering), co giật (twitching) thay v́ co bóp
(beating) và cuối cùng là ngưng tim, nhiệm vụ bơm máu chấm dứt.
Do đó,
các cơn đau ngực đều nên coi là khẩn cấp. Nếu bất cứ dấu hiệu nào mà
ta nghĩ là có thể xuất phát từ trái tim, th́ kêu cấp cứu ngay.
c- Viêm màng bọc trái tim
Màng
bọc trái tim hoặc ngoại-tâm-mạc (pericardium) là một cái màng bao
quanh tim để che chở cho cơ quan nhỏ bé nhưng quư giá này. Màng có
thể bị viêm v́ nhiễm virus, chứng ure huyết, ung thư và có các triệu
chứng như đau ngực, nóng sốt…
d- Rách động mạch chủ
Động
mạch chủ (aorta) là động mạch chính của cơ thể, xuất phát từ tâm
thất trái, uốn cong phía trên tim rồi chạy xuống ngực và bụng, phía
trước xương sống.
Khi bị
một cú đập mạnh vào ngực, hoặc khi huyết áp lên quá cao, lớp màng
lót của động mạch chủ có thề bị rách (aorta dissection), tạo ra một
cơn đau ngực không lường trước, rất dữ dội, có thể chết ngưới. May
mắn là chuyện này rất hiếm khi xảy ra.
e- Co thắt cơ của động mạch vành
Đôi
khi cơ của động mạch vành co thắt và cũng đưa tới đau ngực từng cơn.
Nguyên do có thể là tự nhiên co hoặc bị các chất như nicotine,
caffeine kích thích. Co thắt xảy ra khi nghỉ cũng như đang hoạt động.
Kết
luận
Đó là
những cơn đau ngực với các nguyên nhân. Biết chúng để đối phó với
chúng là điều cần, v́ cẩn tắc vô ưu, cứu bệnh như cứu hỏa.
Bác sĩ
chuyên bệnh Tim Mạch Harvey Simon, Đại học Y khoa Harvard, thường
nói với các sinh viên của ông rằng: “Dấu hiệu thông thường nhất của
cơn-đau-tim là cơn đau thắt ngực và dấu hiệu thứ nh́ là sự phủ nhận
denial, vùi đầu trong cát. -Ôi chỉ một chút căng thẳng, khó tiêu,
hết ngay ấy mà!”.
Và ông
đề nghị: với mọi nhói tim, nặng ngực, khó thở, cần tham khảo ư kiến
bác sĩ ngay. Kẻo rồi lại quá trễ.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Texas Hoa Kỳ.
|