|
Câu Chuyện Thầy
Lang : Cơn Đau Thể
Chất Bác sĩ
Nguyễn Ư-Đức Tại Hoa Kỳ, có nhiều
tổ chức y khoa chuyên nghiên cứu về
vấn đề Đau Nhức Cơ Thể v́ đây
là một trong mấy rối loạn sức
khỏe thường xẩy ra. Các tổ chức
này đă phát động một chiến dịch
để thỉnh cầu chính quyền các
tiểu bang thừa nhận tháng 9 mỗi năm như
là thời gian để mọi người ư
thức được sự trầm trọng
của niềm đau thể chất.
Đồng thời họ cũng khuyến khích
người cung cấp dịch vụ y tế gia tăng
các phương thức điều trị để
giảm khó khăn cho bệnh nhân. Cùng khi đó, vào tháng 3 năm
2005, dân biểu Mike Rogers đă đệ tŕnh
Hạ Viện Hoa Kỳ dự luật HR 1020
National Pain Care Policy Act of 2005, nhằm thúc đẩy
chính quyền thành lập một Trung Tâm Quốc
Gia về Đau Nhức cũng như tăng cường
sự hướng dẫn, nghiên cứu, điều
trị Cơn Đau. Dự Luật được
thảo luận vào ngày 14 tháng 9 năm 2005. Coi vậy ta thấy những cơn
Đau Thể Chất vẫn là một một ám
ảnh lớn của người bệnh. Vấn
đề rơ ràng hơn nhất là trong thời
gian vừa qua, một vài loại thuốc
chống đau đă được rút khỏi
thị trường sau khi có những nhận xét
nghiêm khắc về tác dụng xấu của chúng. Ngoài ra, đă có một thời
kỳ, giới y tế cũng như công chúng
đă không để ư nhiều tới sự
điều trị và nghiên cứu về cảm
giác đau của cơ thể khi bệnh hoạn
thương tích. Nhiều trường họp
đau v́ ung thư hoặc đau cận tử
đều không được chữa tới nơi
tới chốn. Đây là một thiều sót lớn
của y giới v́ điều trị Đau Nhức
một cách hữu hiệu là một phần
rất quan trọng trong việc chăm sóc
bệnh nhân. Vậy xin cùng t́m hiểu về
những Cơn Đau Thể Chất này. Đau là ǵ? Tự điển tiếng Việt
định nghĩa Đau là “trạng thái khó
ở, nhức nhối về thể chất gây ra
do thương tích và bệnh tật”. Năm 1968, tác giả M. McCaffery
định nghĩa “Đau là bất cứ cái ǵ
khó chịu mà nạn nhân nói ra và ở nơi nào
mà họ chỉ” Năm 1979, Hội Quốc Tế
Nghiên Cứu về Đau định nghĩa: “Đau
là một kinh nghiệm khó chịu về cảm
giác và xúc động gây ra do thương tích
của tế bào hoặc được biểu
lộ qua t́nh trạng hư hao của các tế bào”.
C̣n Plato phát biểu bao quát hơn
“Đau là cái ǵ liên can tới thể chất nhưng
cũng nói lên kinh nghiệm khó khăn về tinh
thần”. Về y học, Đau là phản
ứng của cơ thể trước một kích
thích. Kích thích được dây
thần kinh ngoại vi tiếp nhận, truyền vào
tủy sống rồi đưa lên phần
Thalamus của năo bộ, nơi mà cảm giác
đau được phát hiện. Sau đó
Thalamus lại chuyển tín hiệu đó tới vùng
năo trách nhiệm về cảm giác thể
chất, cảm giác xúc động và sự suy tư.
Năo sẽ đưa ra biện pháp đối phó,
thích nghi, cũng như tiết ra những hóa
chất làm dịu cơn đau hoặc báo động
sự hiểm
nguy. Do đó con người có phản ứng khác
nhau với sự đau. Có người đau nhiều, người
đau ít, có người tức giận có người
thản nhiên. Cơn đau của Thiên Đầu
Thống chắc làm ta chú ư và phản ứng
nhiều hơn là đau khi cắt quả táo mà lưỡi
dao sắc lẹm nhẹ vào da. Cường độ cảm giác
đau cũng thay đổi tùy theo nhiều
yếu tố. Yếu tố từ con người
như tâm trạng, thái độ đối
với đau; kỷ niệm đau trong quá
khứ; tŕnh độ học vấn và giai
tầng trong xă hội, tuổi tác và giống tính.
Một em bé chưa đi nha sỹ
bao giờ mà chỉ nghe bạn bè kháo nhau “ông
ấy khoan răng tao đau quá trời chúng mày
ơi”, th́ chắc sẽ khóc thét khi chỉ
mới nh́n thấy ông bà nha sĩ. Một lực sĩ chú tâm
biểu diễn chắc có thể tỉnh bơ,
cắn răng chịu đựng khi mũi
giầy vấp vào vật cứng. Tâm trạng
sợ hăi, mệt mỏi trầm buồn làm tăng
cảm giác đau. Cũng như câu nói ‘Công chúa
đứt tay khóc la như thợ cầy bị
sừng trâu nhọn hoắt húc ḷi ruột ra ngoài”. Các sự việc này khiến ta liên
tưởng tới khái niệm “ngưỡng
cửa ” về cảm giác đau (Pain Threshold),
một giới hạn dưới đó ta
tỉnh bơ với kích thích, với tác nhân gây
đau. Người có tín ngưỡng
mạnh coi sự đau đớn như trừng
phạt của Thương đế với
tội lỗi của ḿnh th́ cũng chịu đựng
được sự đau đớn. Rồi
lại c̣n yếu tố tập tục văn hóa
khích lệ con người trai lỳ, ngậm
bồ ḥn làm ngọt “Bite the Bullet” trước
cơn đau để biểu dương nhân cách
cang cường. Cảm giác Đau hoàn toàn có tính cách
cá nhân, chủ quan, không đo lường
được nên chỉ có đương
sự mới diễn tả được đau
ở đâu, đau khi nào, đau nhiều hay ít.
Do đó không ai có thể cảm thấy cái đau
của người khác cũng như cơn đau
của mỗi người mỗi khác. Và người
chăm sóc phải luôn luôn coi lời than phiền
là có thực, mà chẳng nên phủ nhận “rơ
thực chỉ giả vờ” hoặc đánh giá
thấp khó khăn của người bệnh. Đă có nhiều đề nghị
thêm cảm giác Đau vào Bốn Dấu Hiệu
Sinh Tử Vital Signs được y học dùng
từ nhiều thế kỷ để xác định
t́nh trạng sức khỏe xấu tốt. Đó là
huyết áp, nhịp tim, nhịp thở và
nhiệt độ. Theo các giới chức này, Đau
là một dấu hiệu của bệnh tật và
có thể được y giới dùng để
ước lượng sự khỏe mạnh
hoặc đau yếu của con người. Với người lớn
tuổi, hiện nay có một Thang Số Number Scale
đánh số từ số 0 là không đau đến
số 10 là đau nhiều nhất. Bệnh nhân
sẽ được hỏi và ghi mức độ
đau theo bảng này. Ngoài ra c̣n Thang Nét Mặt Face Scale
với nét b́nh thản, hơi nhăn nhó và đau
phát khóc hoặc Thang với hàng chữ từ không
đau tới đau vừa, đau nhiều hơn
và đau lắm. Các Thang này giúp xác định cường
độ đau cũng như để theo dơi
kết quả điều trị. Đau nhức là một khó khăn
rất thường xẩy ra. Cứ mười
người th́ có đến tám người than
phiền đau nhức đâu đó trên cơ
thể và là lư do đi khám bệnh nhiều
nhất, đặc biệt là với các vị
tuổi cao. Nào là đau lưng, nhức xương,
thoái hóa cột sống, đau răng, đau ḿnh,
đau v́ ung thư, đau sau giải phẫu,
đau của người già, đau kinh kỳ
phụ nữ. Thôi th́ trăm thứ.Theo thăm ḍ
ư kiến th́ chỉ 1 trong 4 người bị
đau với các hậu quả như giảm sinh
hoạt hàng ngày, đời sống khó khăn, lo
ngại, trầm buồn, bực tức, vắng
mặt nơi làm việc được là
điều trị tới nới tới
chốn. Số c̣n lại triền miên nhăn nhó
với cơn đau. Các loại Đau Về sinh hóa học, khi bị
tổn thương, tế bào sẽ tiết ra
mấy hóa chất đưa tới cơn đau,
như Prostaglandins, Histamine, Serotonin, Cytokin. Hóa
chất Endorphin lại làm bớt đau Đau có thể là măn tính hoặc
cấp tính tùy theo thời gian cơn đau kéo dài
lâu mau và cũng tùy theo nguyên nhân gây ra Đau. a- Đau cấp tính. Đây là một hỗn hợp
nhiều cảm giác và xúc động khó chịu
với mấy đặc tính như sau: -Xuất hiện khi tế bào
bị tổn thương và tan biến khi vết
thương lành; - Nhẹ thoảng qua nhưng đôi
khi kéo dài vài tuần vài tháng; - Khởi sự đột
ngột, rất mạnh kèm theo vài phản ứng
của cơ thể như la làng khóc lóc, đổ
mồ hôi, huyết áp lên cao, tim đập nhanh,
tức giận. Cũng có người thản nhiên
như không có chuyện ǵ xẩy ra. Các nguyên nhân thông thường
của Đau này là do thương tích, phỏng,
gẫy xương, bong gân, giải phẫu, sanh
đẻ, bệnh hoạn ở t́nh trạng nghiêm
trọng. Ngoài sự khó chịu, cơn
đau cấp tính c̣n có vài tác dụng khác: báo
hiệu, bảo vệ cho con người về
nguy cơ và mức độ hư hao tế bào.
Từ đó sẽ có một số phản
ứng tự vệ như rút tay chân về, co
bắp thịt hoặc thay đổi vị trí cơ
thể để giảm đau như ôm bụng,
nằm ngửa nằm nghiêng. b- Đau kinh niên. Đau kinh niên kéo dài khá lâu, sau
thời gian lành của thương tích, bệnh
hoạn hoặc có thể hết đi rồi tái
xuất hiện. Đau này nhiều khi khó trị v́
không chữa dứt được nguyên nhân gây
ra đau; Trước
đây đau kinh niên được hiểu như
đau kéo dài dăm ba tháng. Bây giờ ngoài
thời gian lâu mau, đau này c̣n bao gồm các
hậu quả như gây ra mất ngủ, khó khăn
trong nếp sống, suy sụp tinh thần, thể
chất. Nguyên nhân có thể là do chấn
thương, hậu giải phẫu, ung thư, viêm
xương khớp, bệnh dây thần kinh. Ngoài ra ĐAU c̣n được phân
chia làm nhiều nhóm tùy theo nguyên nhân thể
chất: a- Đau do thương tích hoặc
bệnh hoạn ở ngoài hệ thần kinh như
hơi nóng, độ lạnh, va chạm mạnh
hoặc do hóa chất kích thích. Gẫy xương,
bong gân, phỏng, cóng giá, viêm v́ nhiễm trùng, viêm
khớp...là những thí dụ. Đau
này có tính cách bảo vệ v́ nó báo cho ta hay có
rủi ro xẩy ra mà ta phải tránh. Cơn đau thường ngầm
ngầm và tiêu tan khi vết thương lành. b- Đau do tổn thương tế
bào dây thần kinh ngoại vi hoặc trung
ương như đau sau khi bị bệnh zona,
tai biến năo, trong bệnh tiểu đường,
ghiền rượu kinh niên, ung thư, Hội
chứng Đường Hầm Cổ Tay, dây thần kinh bị u bướu đè lên...
Đau thường kéo dài cả tháng,
đôi khi nhiều năm dù sau khi vết thương
đă lành. c- Đau hỗn hợp với thương
tích trong ngoài thần kinh như với chứng
thiên đầu thống, đau bắp thịt trên
mặt. d- Trường hợp Đau Chi Ma Quái Phantom Limb Pain cũng rất đặc
biệt. Người bệnh cảm thấy đau
ở phần chân tay đă bị cắt cụt
giống như cái đau ở phần chi đó
trước khi được lấy đi. Đây là
một loại đau rất khó hiểu trong y
học. Đặc tính cơn
đau a-Nơi đau. Đau có thể tại chỗ như
trên da, khớp xương, gân; thương
tổn chỗ này mà đau chỗ khác như cơn
đau tim angina lại đau ở cánh tay trái; viêm
ruột dư góc dưới bụng bên phải
lại đau nơi chấn thủy; đau
dọc theo dây thần kinh như bệnh Zoster;
đau toàn thân fibromyalgia. b- Thời gian lâu mau. Đau chớp nhoáng như kim châm;
đau nhịp nhàng trong trường hợp thiên
đầu thống migraine hoặc hư răng;
từng cơn kéo dài khi đau ruột; đau tăng
dần tới tột điểm, kéo dài một lúc
rồi giảm như trong cơn đau tim angina;
đau liên tục của viêm xương khớp;
cơn đau kịch phát paroxysmal như tổn thương
dây thần kinh. c- Mức độ đau Nhẹ ngoài da; đau dát; đau
ngầm ngầm; đau quặn; đau như
cắt, vặn ép; đau chớp nhoáng như
điện giựt. d- Đau kèm theo các khó khăn khác như
buồn nôn, ói mửa, nổ đom đóm
mắt, ù tai Hậu quả Đau
không điều trị. Khi cơn đau kéo dài, cơ
thể có một số đáp ứng sinh học
để bảo vệ nhưng nếu kéo dài lâu
hơn th́ lại không tốt. Chẳng hạn như khi đau tim
không chữa th́ tăng nhịp tim, huyết áp,
sức cản thành mạch máu, sử dụng dưỡng
khí, độ đông đặc máu. Hậu
quả là mất cân, nóng sốt, tim phổi suy, kích
xúc. Đau cơ quan hô hấp kinh niên th́
ta sẽ giảm nhịp thở và phổi sẽ
bị viêm hoặc sưng. Đau bao tử ruột th́ các cơ
quan này giảm nhu động để bớt
đau khiến cho tiêu hóa chậm và đưa
tới táo bón, kém dinh dưỡng, mất cân. Cơ thể đáp ứng với
đau xương khớp bằng co cứng
bắp thịt, giảm cử động để
bớt đau. Hậu quả là bất động,
suy yếu, mệt mỏi. Ngoài ra nếu không điều
trị đúng đắn th́ đau có nhiều
nguy cơ trở thành kinh niên, đưa tới
không hoàn tất được các công
việc thường nhật như ăn uống
tắm rửa, vận động cơ thể
hoặc trở nên buồn phiền lo âu mất
ngủ, cô lập, khó khăn trong việc làm t́nh.
Đau kinh niên cũng đưa
tới giảm sản xuất, kém lợi tức,
vắng mặt tại sở làm, trường
học, thất nghiệp. Khó khăn điều
trị Đau là những khó khăn chủ
quan nên chưa xác đinh được bằng
đo lường khách quan, máy móc. Người
bệnh diễn tả nhiều ít ra sao th́ y
giới theo đó mà sắp đặt phương
thức điều trị, gia giảm liều lượng
dược phẩm. Nhiều vị nhất là cao niên
không nói hết sự đau đớn v́ sợ,
v́ không muốn cho là lắm chuyện hoặc v́
thói quen chịu đựng hoặc không diễn
tả được chi tiết, ngôn ngữ
bất đồng. Ngày 7 tháng 5 năm 2005 vừa qua,
hệ thống thông tin ABC công bố kết
quả một thăm ḍ do Bác sĩ Carmen R. Green
thực hiện Kết quả cho thấy nhiều
bác sĩ cung cấp ít điều trị cho
nữ giới hơn là nam giới mặc dù
họ có cùng một thứ đau. Đi Khám Bác sĩ Để giúp bác sĩ trị
liệu, bệnh nhân nên để ư mấy điểm
như sau: a- Khi đi khám bệnh lần
đầu v́ Đau Nhức, nên ghi rơ thời gian
và hoàn cảnh đưa tới khó chịu,
các giải phẫu bệnh tật đă có, phương
thức điều trị đă áp dụng. b- Mang tất cả thuốc men
đă dùng, kết quả thử nghiệm, h́nh
quang tuyến b- Tả rơ đặc tính của
cơn đau như là
đau kéo dài bao lâu, bắt đầu
từ chỗ nào, lan ra đâu, đau nhiều hay
ít, các yếu tố làm đau tăng hoặc
giảm... d- Các phương thức chữa
đau hiện thời hoặc trong quá khứ,
kết quả điều trị; e-Trong gia đ́nh có ai bị đau
như vậy không? g- Ảnh hưởng đau vào các
sinh hoạt hàng ngày cũng như vào các chức
năng cơ thể; h- Ghi những điều muốn
hỏi bác sĩ như nguyên nhân gây đau,
chữa thế nào, tác dụng ngoại ư của
điều trị, tương lai đau sẽ ra
sao, ḿnh phải làm ǵ, bác sĩ sẽ làm ǵ, có
cần khám bác sĩ chuyên môn nào khác, bao giờ
tái khám, các ước vọng của ḿnh với
điều trị. Điều trị Có nhiều cách điều trị
các đau nhức: 1- Dược
phẩm. a-Thuốc chống đau không á
phiện và không steroid b-Thuốc chống đau có á
phiện; c- Các thuốc giảm đau
hỗ trợ như thuốc trị bệnh kinh
phong, trầm cảm, thuốc gây tê tại
chỗ. 2- Không dùng dược phẩm như
tâm lư trị liệu, phản hồi sinh học
biofeedback, thư giăn, thôi miên, châm cứu, cây con
thiên nhiên, vật lư trị liệu,
xoa bóp, chườm nóng lạnh, tập
luyện, bó bất động Các phương thức này có vai
tṛ phụ trợ chứ không thay thế cho dược
phẩm, giải phẫu. Ngoài công dụng
giảm đau, phương thức này c̣n giúp người
bệnh bớt lo lắng, tăng khả năng
kiểm soát, đối phó với cảm giác
đau, giúp ngủ ngon, thư giăn cơ thịt,
vui sống hơn. 2- Giải phẫu. Thường thường th́ các
phương thức điều trị kể trên
đều có thể giảm đau đớn cho
người bệnh. Tuy nhiên đôi khi cũng
phải sử dụng tới phẫu thuật như
thay khớp, cắt bỏ cung sau (lamicectomy) để
giảm áp suất trên dây thần kinh, kết
nối đốt sống (spinal fusion ), cắt dây
thần kinh dẫn cảm giác đau... 3- Các kỹ thuật tân tiến:
Một máy kích thích điện tử được
cài vào cơ thể người bệnh để
chặn không cho cảm giác đau lên năo bộ;
một máy bơm giỏ từng giọt thuốc
giảm đau vào chỗ đau vừa tiết
kiệm thuốc vừa tránh tác dụng ngoại
ư. 4- Việc dùng cần sa, nicotine
để giảm đau đang là đề tài
tranh căi. Theo một số nhà y học, cần sa công
hiệu với các đau kinh niên ung thư. Nhưng
mới giữa tháng Tư năm 2006 vừa qua, Cơ
Quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ không
đồng ư việc hợp thức hóa dùng
cần sa để giảm đau
v́ “cần nghiên cứu thêm”. Riêng nicotine
th́ nghiên cứu tại Đại Học Columbia cho
biết có thể giảm cảm giác đau.. 5- Bác sĩ Harold Koernig, Đại
Học Duke cho hay trong đau đớn có nhiều
yếu tố liên hệ khác như lo sợ,
trầm buồn, bực tức, mất hy vọng,
cô đơn. Niềm tin tôn giáo giúp giải
tỏa các cảm xúc này th́ cũng giảm các cơn
đau. Thăm ḍ của ABC News và nhiều
bệnh nhân cũng đồng ư như vậy. Tâm lư trị liệu cũng giúp
bệnh nhân có kiến thức cặn kẽ
về cơn đau và biết cách đối phó
bằng thư giăn toàn thân. Người bệnh cũng nên có
một kế hoạch đối phó, thích nghi
với khó khăn đau nhức. Họ cần
hợp tác với thầy thuốc có kinh
nghiệm để cùng t́m phương thức
giảm thiểu; để ư tới các xúc động
gây ra do đau nhức; nghỉ ngơi đầy
đủ nhưng cũng không quên vận động
cơ thể, dinh dưỡng cân bằng, nếp
sống lành mạnh; không tự sống cô
lập v́ lư do đau mà nên gia nhập nhóm cùng
cảnh ngộ để chia xẻ hỗ trợ
lẫn nhau. Ngoài ra có một vài ngộ
nhận về điều trị đau kinh niên
của giới cao niên mà ta cần để ư: a- Đau nhức không phải là
một thành phần trong tiến tŕnh hóa già như
nhiều người tưởng. Nhưng tuổi
cao thường dễ có những đau lưng,
nhức gối v́ lư do khác nhau như thời
tiết, hoặc từ các bệnh kinh niên và
đều có thể điều trị được,
bằng cách này hay cách khác. b- Nhiều người cứ
ngại khi dùng thuốc chống đau có
thuốc phiện v́ sợ bị ghiền.
Thực ra dùng lâu có thể khiến bệnh nhân
tùy thuộc vào thuốc nhưng không phải lúc
nào cũng ghiền thuốc. Trước khi cho các
thuốc này, bác sĩ thường cân nhắc
kỹ càng từng trường hợp. Kết luận Đau Nhức không những là
vấn đề sức khỏe cá nhân mà c̣n
ảnh hưởng tới t́nh trạng kinh
tế, xă hội của đất nước.
Theo viện Quốc Gia Hoa Kỳ về An Toàn và
Sức khỏe Nghề nghiệp th́ hàng năm Đau
Nhức đă đưa đến thất thoát
cả trăm tỷ mỹ kim v́ đau khiến công
nhân không làm việc được, v́ phí
tổn chăm sóc điều trị. Người bị đau nhức
kinh niên có thể trở thành xa cách, cô lập
với gia đ́nh, bạn bè cũng như không
chu toàn chăm sóc được con cái, vợ
chồng. Và đó mới là điều đáng
buồn, đáng quan tâm. Bác sĩ Nguyễn Ư Đức Texas-Hoa Kỳ
|