Câu Chuyện Thầy Lang
Ảnh hưởng của rượu trên thai
nhi
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức
Rượu là một dược phẩm cổ xưa nhất mà
nhân loại đă từng biết tới. Và rượu cũng là một trong nhiều chất độc
hại mà con người tự nguyện tiêu thụ.
Tại vài quốc gia Âu Mỹ, rượu là nguyên
nhân hàng đầu gây ra chậm phát triển trí tuệ cho đứa con khi mẹ mang
thai nghiện rượu. Hậu quả này đứng trên cả Hội chứng Down, truờng
hợp đứa con chậm trí do mẹ luống tuổi sanh con lần đầu.
Từ thế kỷ thứ 18, các nhà nghiên cứu và
các thầy thuốc bên Anh, bên Pháp đă quan sát thấy hậu quả không tốt
của rượu đối với thai nhi khi người mẹ uống trong khi có thai.
Nhưng thực ra ảnh hưởng tai hại này đă
được ghi trong Thánh Kinh: “Người nữ có thai đều được nghiêm túc
khuyến cáo là không uống rượu nho hoặc đồ uống mạnh và không được ăn
thực phẩm không tinh khiết để tránh tổn thương cho thai nhi”.
Triết gia Aristote th́ nói những người
mẹ say sưa, điên khùng, thường sanh ra con lù đù, chậm chạp.
Ảnh hưởng của rượu trên thai nhi được
các giới chức y tế Pháp nghiên cứu và công bố vào năm 1968.
Năm 1973, trên tạp chí Y học Lancet,
Kenneth Lyons Jones và David W. Smith đặt tên cho ảnh hưởng này là
Fetal Alcohol Syndrome. Họ đă nghiên cứu h́nh dáng bất b́nh thường
của 5 đứa trẻ do các bà mẹ nghiện rượu kinh niên sanh ra.
Rồi đến ngày 31 tháng Năm 1977, trong
chương tŕnh phát h́nh buổi chiều, đài NBC đă mang tŕnh diện h́nh
ảnh em bé Melissa bị ảnh hưởng của rượu mà người mẹ uống khi mang
thai em. Đầu em nhỏ, thân h́nh mảnh khảnh, mí mắt hẹp. Dung mạo bất
b́nh thường của em bé đă gây một xúc động lớn trong công chúng.
Ngay ngày hôm sau hai cơ quan uy tín về
Bệnh Nghiện Rượu ở Mỹ vội vàng lên tiếng rằng: đàn bà có thai mà
uống trên 30ml rượu nguyên chất mỗi ngày th́ đều có nguy cơ sinh con
dị dạng, chậm trí. Họ cũng công bố kết quả các nghiên cứu dịch tễ
rằng rượu là chất gây ra quái thai, tâm trí bất thường khi c̣n là
bào thai hoặc khi tăng trưởng. Các hệ thống truyền thông lớn cũng
vội vàng phổ biến rộng răi tin tức quan trọng này.
Từ đó, công chúng bắt đầu lưu tâm nhiều
hơn với vấn nạn Mẹ-Nghiện-Rượu-Con -Khuyết- Tật (Fetal Alcoholic
Syndrome). Giới y khoa mở rộng phạm vi nghiên cứu, điều trị. Y tế
công cộng đưa ra các chương tŕnh pḥng ngừa, giáo dục hướng dẫn phụ
nữ có thai đừng uống rượu.
Đến năm 1989, trên mỗi chai rượu đều bắt
buộc phải ghi lời cảnh cáo về FAS. như sau:
“Phụ nữ không nên uống rượu khi có thai
v́ có nguy cơ khuyết tật cho thai nhi”.
Việc ghi lời cảnh cáo này trên nhăn hiệu
rượu là sự thành công của nhiều vận động kể từ năm 1977, v́ các hăng
sản xuất rượu luôn phản đối để bảo vệ quyền lợi kinh tế của họ.
Cũng năm 1989, trên giấy khai sinh có
dành một ô trống để ghi nếu người mẹ có thai mà ghiền rượu trong
thời gian mang thai đứa trẻ.
Cũng giống như với trường hợp thuốc lá,
nhiều người đă đứng ra kiện các nhà sản xuất rượu v́ tác dụng tai
hại của rượu trên thai nhi.
Mặc dù đă có nhiều nỗ lực, cho đến nay
người ta vẫn c̣n ghi nhận một tỷ lệ từ 1 đến 3 phần ngàn trẻ em trên
toàn thế giới chịu ảnh hưởng của t́nh trạng đáng buồn này.
Ảnh hưởng rượu trên
thai nhi
Khi uống rượu th́ mẹ uống bao nhiêu con
cũng uống bấy nhiêu, v́ rượu theo máu lưu chuyển sang con với cùng
nồng độ.
Nếu trong máu mẹ có mức rượu là 0.3% th́
ở thai nhi cũng là 0.3%. Nhưng nhờ cơ thể to lớn hơn với các chức
năng hoàn hảo của lá gan nên người mẹ phân hủy rượu nhanh chóng hơn
so với thai nhi. V́ thế, nếu người mẹ say rượu chỉ trong vài giờ th́
thăi nhi vẫn c̣n tiếp tục “li b́” đến vài ngày. Uống say khướt
(binge) trong thời gian ngắn lại càng nguy hại hơn là uống lai rai
kéo dài trong nhiều năm.
1-Tác hại của rượu.
Sau khi uống, chất rượu ethanol được
chuyển thành acetaldehyde, gây độc hại lên tế bào thai nhi. Các nhà
chuyên môn đă đưa ra một số giải thích ảnh hưởng này như sau:
a-Rượu tương tác với chất prostaglandin,
một chất có liên hệ rất nhiều tới sự tăng trưởng và các chức năng
của thai nhi.
b-Rượu làm giảm sự lưu thông máu từ mẹ
qua con, do đó chất dinh dưỡng, dưỡng khí giảm và tế bào thai nhi bị
suy yếu, kém tăng trưởng.
c-Rượu cũng có thể ảnh hưởng tới sự hấp
thụ khoáng chất kẽm và magnesium hoặc làm thay đổi các diếu tố
(enzymes), lượng kích thích tố như corticosteroid, kích thích tố
tăng trưởng. Mỗi người, mỗi chủng tộc có những enzyme khác nhau để
phân hủy rượu, nên ảnh hưởng rượu thay đổi tùy người, tùy giống ṇi.
d-Rượu làm thay đổi cấu trúc của màng tế
bào, đưa đến thay đổi h́nh dạng, kích thước, làm chậm tăng trưởng và
chậm phân bào. Mọi tế bào đều bị ảnh hưởng, nhất là tế bào thần kinh
vào giai đoạn đầu của thời kỳ có thai.
e-Rượu cũng giảm khả năng tổng hợp các
chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh cho nên các hoạt động trí năo bị
ảnh hưởng rất nặng.
2-Tác hại lâu dài
Tác hại của rượu lên thai nhi không chỉ
trong một thời gian ngắn, mà c̣n kéo dài hầu như măi măi về sau. Tùy
theo độ tuổi của đứa trẻ khi lớn lên, các tác hại này có những biểu
hiện khác nhau.
Khi tuổi c̣n thơ, trẻ hay bồn chồn, dễ
kích thích, ăn ngủ khó khăn, chậm lớn, chậm phát triển, cử động
không nhịp nhàng.
Trước tuổi đi học, trẻ có biểu hiện hiếu
động quá mức, kém tập trung, chậm hiểu, diễn tả ngôn ngữ khó khăn
Vào tuổi đi học th́ trẻ không thể tập
trung sự chú ư, quá hoạt động, không biết làm toán, học hỏi chậm,
kém tiếp thu, hành động không tự chủ.
Khi lớn lên, trẻ kém trí nhớ, kém suy
luận, nhận xét, không biết cách sử dụng tiền bạc, không biết hậu quả
việc làm, có hành động dục tính không hợp lư, nghiện rượu thuốc cấm,
có vấn đề trong hành vi, cư xử...
Hội chứng này là một tàn tật vĩnh viễn,
v́ không thể chữa trị dứt cũng như cơ thể trẻ không thể tự vượt qua
khi lớn lên như một số bệnh tật khác. Lư do là v́ tế bào thần kinh
hư hỏng không phục hồi được. Nhiều tế bào thần kinh không phát triển,
không tăng trưởng, bỏ trống, thiếu giây thần kinh nối kết nên các
chức năng bị rối loạn.
Đây là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng
tới sức khỏe nạn nhân cũng như có nhiều hậu quả xấu cho cả gia đ́nh
và xă hội.
3-Giai đoạn mang thai
Nghiên cứu ở loài vật mang thai cho thấy
tác hại của rượu trong giai đoạn đầu tiên của thai kỳ là rượu đưa
tới khuyết tật các cơ quan trong cơ thể; giai đoạn thứ hai và thứ ba
đưa đến hành vi bất thường. Nhiều quan sát cho thấy ngưng uống vào
giai đoạn ba của thai kỳ cũng giảm bớt một phần ảnh hưởng xấu. Một
vài lần uống say khướt (binge) rồi ngưng cũng vẫn nguy hại dù sau đó
ngưng uống hoàn toàn.
4- Uống bao nhiêu là có hại?
Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là: có một
liều lượng rượu nào có thể xem là an toàn cho người mẹ nghiện rượu
không?
Một số ư kiến cho là đă có nhiều thế hệ
phụ nữ mang thai uống rượu mà tác hại đâu có xảy ra ở tất cả mọi
trường hợp?
Mặt khác, ngay cả các nhà nghiên cứu
hiện nay cũng cho rằng cơ thể mỗi người mỗi khác nên rất khó xác
định một liều lượng có thể xem là “đủ để gây hại cho thai nhi”. Và
như thế th́ cũng không thể xác định được một “liều lượng an toàn”.
Số lượng uống nhiều ít được dư luận
trong ngoài y giới lưu ư và trở thành một đề tài về sức khỏe công
cộng. Phụ nữ được hướng dẫn, giải thích không nên uống rượu khi có
thai. Các phương tiện truyền thông đại chúng cũng nhắc nhở các bà mẹ
có thai nên tránh rượu để khỏi gây rủi ro cho con ḿnh.
Trong giai đoạn đầu tiên, khi vấn đề vừa
được nêu ra, chưa có nhiều kết quả nghiên cứu cụ thể, nên một số
thầy thuốc cho là nếu uống dưới 30 ml một ngày th́ không sao.
Trong một quyển sách về sản phụ khoa
xuất bản năm 1977, tác giả Benson cũng cho là “ đôi khi uống rượu,
chẳng hạn một ly nhỏ rượu trái cây trước bữa ăn tối, th́ không có
ảnh hưởng ǵ cho thai nhi”. Nhưng sau đó v́ ảnh hưởng của rượu ngày
càng được làm rơ, nên sách này khi tái bản năm 1983 đă sửa lại là “
khi có thai nên tránh uống rượu là điều tốt nhất, v́ uống rượu trong
lúc mang thai sẽ có thể sinh ra con dị dạng, chậm trí”.
Năm 1977, hai tổ chức quan trọng về bệnh
nghiện rượu tại Hoa Kỳ là National Institute of Alcohol Abused and
Alcoholism và National Council on Alcoholism ra một thông cáo chung
tuyên bố rằng “phụ nữ có thai mà mỗi ngày uống từ 120ml trở lên th́
có nhiều nguy cơ sanh con khuyết tật”. Cẩn thận hơn nữa, hai cơ quan
xác nhận thêm “ ngay cả từ 60 cho tới 90ml rượu cũng có thể gây ra
tổn thương cho thai nhi”.
Tạp san của Hội Y Sĩ Hoa Kỳ vào tháng 10
năm 1984 có đăng một nhận định đại ư là “dù chỉ uống lượng rượu vừa
phải cũng gây ra chậm tăng trưởng cho thai nhi”.
Càng ngày càng có nhiều chứng minh chắc
chắn là tác hại của rượu lên thai nhi tùy thuộc vào số lượng: uống
nhiều, hại nhiều. V́ thế, nhiều người dễ dàng đi đến kết luận là
uống ít, hại ít. Nhưng ư kiến chung của các giới chức y tế vẫn là:
khi người mẹ mang thai th́ không có một liều lượng nào có thể xem là
an toàn cho thai nhi cả. Đặc biệt chỉ cần có một đôi lần uống say
mềm cũng đă quá đủ để gây hại nghiêm trọng cho thai nhi.
Vấn đề FAS đặt ra đúng vào lúc tỷ lệ phụ
nữ, nhất là thiếu nữ, dùng rượu tăng cao. Trong khi đó kỹ nghệ sản
xuất rượu lại phát triển rất mạnh và đóng góp khá cao cho ngân sách
của nhiều quốc gia. Rượu lại rất phổ biến, được bán hợp pháp, được
quảng cáo rộng răi, được nhiều nguời uống.
Rượu cũng gây nhiều tác hại cho chính
bản thân những người mẹ nghiện rượu trong thời gian mang thai. Họ dễ
bị băng huyết, nhau tách sớm, sẩy thai.
Dấu hiệu của khuyết
tật.
Ngay khi mới sanh, đứa bé có dấu hiệu
như của một người nghiện nhớ rượu: rất dễ bị kích thích, ḿnh run
rẩy, cơ thịt co giật như lên kinh phong.
Hai thay đổi chính sau đây đă được mô tả
:
1-Thay đổi h́nh dáng.
Đầu là nơi có những thay đổi rơ ràng,
đặc biệt nhất. Đầu nhỏ, tóc mọc sau gáy, trán nhô, mặt dẹp, g̣ má
thấp, tai thấp, mi mắt sụp, mắt nhỏ, mũi ngắn, sống mũi dẹp, môi
trên mỏng đôi khi chẻ, răng nhỏ, cằm lẹm, khoảng cách giữa mũi và
miệng rộng.
Lồng ngực nhô ra hoặc xẹp vào, cột sống
nghiêng vẹo.
Khớp xương và tứ chi bất b́nh thường:
ngón tay út ngắn, co quắp, dấu ngón tay mờ, cơ thịt nhăo, khớp xương
lỏng lẻo; cử động xương hông giới hạn.
Ngũ quan cũng bị ảnh hưởng: về thị giác
th́ có lé mắt (strabismus), rung rật nhăn cầu (nystagmus), cận thị
cả hai mắt. Dây thần kinh mắt bị giảm sản.
Một phần ba nạn nhân bị điếc trong khi
đó th́ nhiều em lại có nhạy thính giác bất thường. Hầu hết dễ dàng
bị bệnh viêm tai giữa.
Tim thận có dị tật. Vách nhĩ-thất thủng
rách. Thận giảm sản, chia đôi; bàng quang có túi (bladder
diverticula), ngọc hành nằm trong bụng.
Các em đều chậm lớn, biếng ăn, nhẹ kí,
ngủ nghỉ bất thường. Đa số có thể tăng trưởng được nhưng rất chậm.
2-Chậm phát triển trí tuệ
Hầu hết các em có chỉ số thông minh IQ
(intelligence quotient) thấp, khoảng 68, so với chỉ số b́nh thường
là 100. Khả năng đọc hiểu và khả năng toán học phát triển không đồng
đều và cả hai đều chậm chạp.
Về phương diện giáo dục, mặc dù vẫn “ có
thể dậy dỗ được”, nhưng 90% các em kém khả năng tiếp thu và diễn tả
ngôn ngữ, 95% không học biết được cách sử dụng tiền.
Các em có tiếng nói lơ lớ, âm thanh nằm
lại trong cuống họng, đều đều, cứng nhắc, phát âm không rơ dù ư
nghĩa và nội dung b́nh thường.
Thời gian phản ứng chậm, kém tập trung;
không phân biệt được mầu sắc; khó nhớ tên người và sự vật; kém phán
xét, không biết hậu quả hành động của ḿnh; không ư thức được tương
lai; không phân biệt khen chê, ơn nghĩa; kém phối hợp các hành động.
Ngay từ khi c̣n bé, các em đă ngang
ngược, hay đ̣i hỏi và gây bực ḿnh cho người khác. Lớn lên các em
thích cô đơn, bất cần đời, không chơi với ai, không nghe ai, lười
biếng, thụ động, buồn vô cớ, ăn cắp vặt, xâm phạm t́nh dục, lạm dụng
rượu.
Một hội nghị vào năm 1980 của các chuyên
gia về Hội Chứng Alcohol Fetal Syndrome đă đề nghị là để định bệnh,
phải có một trong các dấu hiệu của ba loại sau đây:
1-Chậm tăng trưởng trước và sau khi sanh
với thiếu cân, thiếu chiều cao, đầu nhỏ so với tuổi
2-Rối loạn về hệ thần kinh trung ương
với các dấu hiệu bất b́nh thường các chức năng thần kinh, chậm phát
triển về hành vi có hoặc có hư hao trí tuệ
3-Có ít nhất hai dấu hiệu bất thường về
đầu- mặt như đầu nhỏ, mắt ti hí, mép trên rộng, môi trên mỏng, mũi
ngắn, g̣ má dẹp.
Các tổn thương này đều không đảo ngược
(non reversible).
Hàng năm, tại Hoa Kỳ có 4000 trẻ em sinh
ra với hội chứng này.
Điều trị và Chăm sóc
Trọng tâm của việc chăm sóc là giải
quyết những vấn nạn xă hội của người mẹ say sưa, những hậu quả mà
đứa con tật nguyền gánh chịu.
Động cơ đưa người mẹ tới nghiện rượu cần
được t́m hiểu, giúp đỡ, chẳng hạn như có vấn đề gia đ́nh, mất việc
làm, có đam mê, áp lực của bè bạn...hoặc do không biết rơ về tác hại
của rượu.
Những phủ nhận, giấu giếm cần được khám
phá, kê khai.
Giáo dục, giải thích về hậu quả của rượu
với mẹ và thai nhi: nguy cơ khuyết tật, chậm trí, những vần đề cá
nhân và xă hội mà đứa bé khi lớn lên phải gánh chịu chỉ v́ sự say
sưa của người mẹ. Ngoài ra, c̣n phải nói tới những tốn kém cho gia
đ́nh và cho cả ngân sách quốc gia.
Thực tế cho hay phụ nữ có thai c̣n trẻ,
độc thân, kém văn hóa, nghiện thuốc lá là những đối tượng thường
uống nhiều rượu. Họ cần được lưu tâm khuyên giải kỹ càng hơn.
Trường hợp xét thấy cần phải bảo vệ thai
nhi th́ có thể đặt người mẹ dưới sự giám sát của luật pháp. Ngiện
rượu khi có thai được nhiều người coi như một h́nh thức bạo hành với
thai nhi, cướp mất đi quyền sống cuộc đời b́nh thường của chúng.
Trong hướng dẫn, giáo dục nên nhấn mạnh
ở những ảnh hưởng xấu của rượu và lợi ích cho cả mẹ lẫn con khi mẹ
ngưng uống. Không bao giờ quá trễ để bỏ rượu, v́ ngưng lúc nào là
thai nhi bớt nguy hại lúc đó, và dù muộn đến đâu cũng vẫn c̣n hơn là
cứ tiếp tục uống.
Thuyết phục hơn là dọa nạt để tránh thái
độ đối kháng, bướng bỉnh.
Với đứa con th́ không có phương thức
điều trị cho Hội chứng này. Việc chăm sóc rất phức tạp, tốn kém và
lâu dài hơn v́ đứa bé sinh ra với nhiều vấn đề tổn thương về thể xác
và tâm thần hầu như không phục hồi được.
Vào tuổi đi học, các em đều có nhiều khó
khăn tại học đường. Lớn lên, các em hay có những hành vi không hợp
pháp, không giữ được liên hệ gia đ́nh nhất là với người mẹ đă sinh
ra ḿnh. Đa số các em được chăm sóc bởi cha mẹ nuôi hoặc trong viện
mồ côi. Nhiều em sau này cũng rơi vào ṿng nghiện ngập, bê tha.
Và xă hội phải mang gánh nặng giúp đỡ
các em suốt đời.
Kết luận
Tỷ lệ mắc phải chứng “Mẹ nghiện rượu,
con khuyết tật” không cao lắm (khoảng 0,1 – 0,3% trên toàn thế giới),
nhưng những đứa con sinh ra đều mang nhiều tàn phế của cơ thể và
sống trong những hoàn cảnh đáng thương. Tất cả chỉ v́ sự thiếu ư
thức kèm theo một chút yếu ḷng của người mẹ.
Hiểu được những điều đó, khi đă có thai
th́ người mẹ dù đang nghiện rượu cũng nên dằn ḷng bỏ hẳn cho qua
khỏi thời gian chín tháng mười ngày cưu mang, để mẹ tṛn, con vuông,
cho gia đ́nh đầm ấm với tiếng nói trong vui của trẻ thơ khỏe mạnh.
Bác sĩ Nguyễn Ư-Đức M.D.
Texas Hoa Kỳ tháng 7,2009
http://www.nguyenyduc.com
|