Câu Chuyện Thầy Lang : An Toàn Dược Phẩm

Bác sĩ Nguyễn Ư Đức

 
 
Dược Phẩm hoặc Thuốc là chất được bào chế để pḥng chữa bệnh, phục hồi các chức năng của cơ thể, thay đổi quá tŕnh sinh sản...khi được dùng đúng lúc, đúng cách, trong một thời gian nhất định. Thuốc có thể tạo ra từ thực vật, khoáng chất, sinh động vật, hóa chất.
Người Việt ḿnh thường phân biệt: a)thuốc Bắc chế biến từ cỏ cây được nhập cảng  hoặc có nguồn gốc từ Trung Hoa; b) thuốc Nam chế từ thảo mộc trồng ở Việt Nam và c) thuốc tây được chế biến theo phương pháp của y học thực nghiệm Âu Mỹ. C̣n danh từ “Dược thảo” là để chỉ các loại cây cỏ dùng làm thuốc chữa bệnh.
 
Vào đầu thế kỷ trước, trên thị trường có rất ít dược phẩm và hiệu quả tuy giới hạn nhưng tương đối an toàn hơn. Ngày nay, thuốc th́ nhiều, dược lực lại cao nhưng cũng hay gây ra một số tác dụng phụ bất lợi. Nếu trong việc cho toa, bác sĩ cần cân nhắc loại thuốc thích hợp với y chứng, phân lượng vừa đủ và thời gian xử dụng chính xác, th́ người bệnh cũng cần thực thi đúng theo hướng dẫn của bác sĩ: thuốc nào, bệnh nấy.      
Quư vị lăo niên ta rất chăm lo tới sức khỏe, nên mẫn cán trong việc t́m thuốc để trị bệnh. Thấy có một triệu chứng khó chịu nào là quư cụ kiếm thuốc ngay: do bác sĩ biên toa, qua sự giới thiệu của bạn bè, đọc sách báo y học hoặc mua trên mạng vi tính.
Thành ra, một vị trên 65 tuổi, có khi uống đến cả dăm bẩy thứ thuốc trong một ngày. Thuốc bệnh do bác sĩ cho về cao huyết áp, thuốc bao tử, thuốc đau nhức, phong thấp, vài viên thuốc ngủ, kèm thêm ít thuốc cổ truyền dân tộc để bổ gân cốt, tăng cường sinh lư do bạn bè giới thiệu, lại c̣n sinh tố, anti oxidant, khoáng chất mua tự do ngoài siêu thị.
Với một hỗn hợp nhiều hóa chất khác nhau như vậy e rằng chúng sẽ gây ra những tác dụng tương phản, đôi khi có hại, cho một cơ thể đă có nhiều thay đổi về cấu tạo cũng như chức năng.
Hàng năm, số bệnh nhân cao tuổi nhập viện khẩn cấp do hậu quả của sự sử dụng thuốc không đúng cách lên rất cao, nhất là với các thuốc về bệnh tâm thần. Theo cơ quan FDA, quá nửa bệnh nhân tử vong và 40% phải nhập viện điều trị v́ tác dụng phụ của thuốc là người trên 60 tuổi. Mà rủi do v́ tác dụng phụ ở lớp người cao tuổi cũng 30% nhiều hơn ở lớp trẻ trung niên.
Lang tôi xin cùng quư vị t́m hiểu thêm về vấn đề sử dụng thuốc men để có thể duy tŕ một sức khỏe b́nh thường hơn.

 Công dụng của dược phẩm.
Về phương diện trị liệu, sự sử dụng dược phẩm nhắm vào những mục tiêu chính yếu như sau:

 1-Trị lành bệnh.
Khi mắc một bệnh nhiễm vi khuẩn, ví dụ sưng phổi, ta sẽ có những triệu chứng ho, nóng sốt cao, mệt mỏi, khó thở. Khám bệnh, thử nghiệm xong, bác sĩ cho uống thuốc kháng sinh trong ṿng 7-10 ngày. Sau đó nhiệt độ giảm, ta bớt ho và trở lại b́nh thường. Như vậy thuốc kháng sinh đă tiêu diệt vi trùng và ta đă lành bệnh . 
 
2 -Thay thế những yếu tố thiếu trong cơ thể –
Một người mắc bệnh thiếu máu, hồng huyết cầu thấp, v́ ruột không hấp thụ được sinh tố B12. Bác sĩ cho chích mỗi tháng một mũi vitamin B12 để thay thế sinh tố thiếu trong cơ thể.
Bệnh nhân bị tiểu đường v́ tụy tạng tiết ra rất ít Insulin, sẽ được chích Insulin nhân tạo mỗi ngày để giữ mức đường huyết không quá cao.
Sư thay thế như vậy đă đáp ứng đúng nhu cầu và đạt được mục tiêu giúp cho cơ thể trở lại b́nh thường sau thời gian bệnh v́ thiếu những chất cần thiết.

3- Ngăn ngừa sự phát triển một bệnh.
Cũng trong trường hợp bệnh tiểu đường, Insulin c̣n duy tŕ bệnh ở t́nh trạng không gây ra những biến chứng nguy hiểm như hư mắt, hư thận và nếu ngưng Insulin, bệnh sẽ trầm trọng thêm lên.
Người bị cao huyết áp nếu ngưng uống thuốc hạ cao máu, bệnh sẽ nặng hơn và có thể gây tai-biến-mạch-máu-năo, kích xúc tim.
Trong các bệnh này, dược phẩm không những có công dụng điều trị mà c̣n ngăn ngừa biến chứng của bệnh.
 
4-Thuốc để làm dịu một triệu chứng.
Thí dụ như khi ta bị đau nhức ḿnh mẩy v́ làm vườn quá sức hay nhức đầu v́ uống rượu quá nhiều, thường thường ta uống một viên Tylenol hay Aspirine.
Thuốc không làm hết bệnh, mà chỉ làm dịu cảm giác đau, khó chịu. Nhiều khi chẳng cần thuốc, mà chỉ cần nằm nghỉ vài giờ là hết đau. Số lượng thuốc dùng trong mục đích xoa dịu này rất nhiều, đôi khi có sự lạm dụng.

5- Pḥng ngừa bệnh.
  Các thuốc này hoặc tạo ra tính miễn dịch hoặc hỗ trợ hệ thống miễn nhiễm của cơ thể như chích ngừa cúm, phong đ̣n gánh. Nhờ sự chích ngừa này mà nhân loại tránh được nhiều bệnh truyền nhiễm, gây tử vong cao ở các thế kỷ trước, như bệnh đậu mùa, dịch hạch, ho gà uốn ván...
 
 Các tác động bất lợi của dược phẩm.
 Với những công dụng như trên, thuốc giữ một vai tṛ quan trọng trong việc duy tŕ sức khỏe của con người, nói chung, và của lăo niên ta nói riêng.
Mà thuốc thường thường cũng chỉ là một hóa chất, có công dụng như nói ở trên, đồng thời cũng có tác dụng ngoại ư không tốt, bất kể là thuốc ǵ, dùng nhiều hay là ít. Đó là những tác-động-có-hại của thuốc (Adverse drugs reaction).
Theo định nghĩa của Cơ Quan Y Tế Thế Giới th́ tác động này là bất cứ một đáp ứng không mong muốn nào của cơ thể, xẩy ra khi dùng thuốc theo phân lượng để ngừa bệnh, định bệnh hay trị bệnh. Tác động có hại được chia nhiều loại:

1-Dị ứng thuốc.
Có nhiều tác động hại không phải do dị ứng, nhưng vẫn được công chúng hiểu nhầm là dị ứng. Chẳng hạn như sau khi uống thuốc, ta bị ói mửa, đại tiện lỏng, sót ruột.th́ chỉ là tác dụng tại chỗ của thuốc vào bao tử.
Dị ứng là do sự tác động của kháng thể đă có trong máu, chống lại sự hiện diện mới đây của dược phẩm, và gây ra một số những triệu chứng khó chịu, đôi khi nguy hiểm. Nó có tác dụng ngược lại với cơ chế miễn dịch, chống sự xâm nhập của vi trùng.
Ban chẩn với những lấm tấm đỏ trên da là phản ứng thông thường nhất của dị ứng. Trường hợp nặng sẽ có nóng sốt, hô hấp khó khăn, thở kḥ khè, ngứa toàn thân, huyết áp giảm, tim đập liên hồi, suy nhược tổng quát ...đôi khi nguy hiểm cho tính mạng, nếu không được cấp cứu.
Phản ứng này thường thấy khi chích thuốc Penicillin, Insulin hay hóa chất dùng trong việc chụp h́nh quang tuyến X. Nó có thể xuất hiện tức th́ hay chậm lại một thời gian. Cũng nên nhớ là dị ứng có thể xẩy ra dù chỉ dùng một phân lượng rất nhỏ hóa chất, dược phẩm.

2-Tác dụng độc của dược phẩm.
Dược phẩm là một hóa chất, mà bất cứ hóa chất nào cũng có tác dụng nguy hại cho cơ thể, ngoài giá trị chữa bệnh.
Viên Aspirin mà ta thường uống để làm dịu nhức đầu, phong thấp th́ cũng làm màng bao tử trầy hư, gây xuất huyết. Thuốc chữa các bệnh ung thư làm rụng tóc. Vài thuốc trị cao huyết áp gây loạn cương dương. Thuốc ngừa máu đóng cục trong bệnh tim mạch làm loăng máu, gây xuất huyết khó ngưng khi bị thương hay giải phẫu.
Đây không phải dị ứng nhưng là tác dụng của hóa chất mà trước khi dùng nó, ta đă được giải thích rơ ràng.

3-Tác dụng do liều lượng không đúng.
Thuốc uống ít quá, không có công hiệu, mà nhiều quá th́ dễ gây phản ứng có hại.

4-Tác động bất thường, không rơ nguyên nhân.
 Đáp ứng của từng cá nhân với thuốc, như là khi dùng một lượng nhỏ thuốc tê có thể gây nóng sốt, hay thuốc Tifomycine gây hủy hoại hồng cầu.
 Sau đây là một số yếu tố có thể khiến tác động bất thường của thuốc dễ xẩy ra:
a- Đă có những bệnh dị ứng.
b- Đă có phản ứng với thuốc trong quá khứ.
c- Uống nhiều thuốc khác nhau v́ có nhiều bệnh kinh niên.
d- Điều trị bởi nhiều bác sĩ chuyên khoa, mỗi người cho toa thuốc khác nhau.
e- Có khó khăn về tài chánh, không mua đủ thuốc, dùng thuốc cũ, quá hạn
g- Khiếm khuyết thị giác, thính giác, không nh́n rơ mặt thuốc cũng như không nghe rơ lời dặn của bác sĩ, dược sĩ rồi uống thuốc không đúng cách.

 5-Tác dụng giữa thuốc và thực phẩm.
Đa số thuốc ta dùng ở nhà là thuốc uống, mà thuốc và thực phẩm đều được hấp thụ vào máu qua bao tử, nhất là ruột non. Hiệu quả của thuốc có thể tăng, giảm hoặc không thay đổi, tùy theo loại thực phẩm và tùy theo uống thuốc trước hay sau khi ăn.
Do đó ta cần hỏi bác sĩ, dược sĩ khi nhận thuốc, để tránh phản ứng bất lợi.

6-Uống nhiều thuốc khác nhau.
Vấn đề đặc biệt quan trọng ở người cao tuổi là uống nhiều thuốc cho nhiều bệnh hay nhiều triệu chứng. Nhiều thuốc th́ tác dụng ngoại ư cũng nhiều và đôi khi các thuốc có tác dụng tương phản nhau, gây không tốt cho cơ thể.

7-Ở người cao tuổi, khả năng hấp thụ của bộ máy tiêu hóa, biến hóa thuốc của gan , và bài tiết dược phẩm qua thận đều giảm tới 40% so với tuổi trẻ, trung niên. Ngoài ra thời gian bán hủy thuốc ở huyết tương cũng kéo dài, và độc tính của thuốc cũng tăng thêm.

8-Người cao tuổi thường nhẹ cân, ít nước, nhiều mỡ béo hơn trung niên. Tỷ lệ thuốc trong cơ thể cao hơn và thuốc ḥa tan trong chất béo ở lại cơ thể lâu hơn. Do đó tác dụng phụ dễ xẩy ra.

9-Người cao tuổi dễ mẫn cảm với thuốc, đặc biệt loại an thần, thuốc ngủ, thuốc chống dị ứng, kinh phong.
Ngoài ra, trong các giai đoạn bào chế, thuốc được thử nghiệm trên xúc vật rồi người trung niên khỏe mạnh, mà không trên người tuổi cao. Cho nên tác dụng ngoại ư ở lớp người này ít được biết tới. Chính quyền đă khuyến cáo các viện bào chế về thiếu sót đó.

 Để dùng dược phẩm an toàn                                                   
 Muốn sự sử dụng thuốc hữu hiệu, không phản ứng, ta nên lưu ư mấy điều sau đây:

 1-Lập danh sách và cố nhớ tên tất cả thuốc đang dùng: thuốc do bác sĩ biên toa, do tự mua, do bạn bè cho với các chi tiết như: Cách dùng-Mục đích- Phân lượng- Khi nào ngưng- Tác dụng phụ của thuốc-Tương tác giữa thuốc với thuốc,với thực phẩm- Có uống đều đặn không- Thuốc có công hiệu không. Nhớ tên để khi đi xa, hết thuốc, biết thuốc nào đang dùng mà mua.

2- Coi xem thuốc có gây ra tác dụng ngoại ư: Làm buồn phiền, gây ảo tưởng, mất định hướng, rối loạn suy tư, trí nhớ, mất ngủ. Làm chóng mặt, đi đứng không vững. Gây khó chịu tiêu hóa như buồn  nôn, ói mửa, ăn mất ngon, đau bụng, táo bón, tiêu chẩy, phân có máu. Đi tiểu khó khăn, không kiểm soát được. Cho bác sĩ hay ngay

3- Bất cứ dấu hiệu, triệu chứng ǵ xẩy ra sau khi uống thuốc mới đều được coi là tác dụng phụ và cho bác sĩ hay để đổi thuốc hoặc giảm phân lượng

4- Hỏi coi ḿnh có thực sự cần thuốc không? V́ với táo bón nhẹ ta có thể ăn thêm chất xơ; muốn xuống kư th́ vận động cơ thể, giảm ăn; buồn phiền không ngủ v́ vợ chồng gấu ó th́ giải quyết thay v́ thuốc an thần. Nhiều khi uống thuốc bệnh lại nặng hơn v́ tác dụng phụ

5- Khi bắt đầu thuốc mới, hỏi coi có tiếp tục thuốc cũ không.

6- Hỏi khi nào th́ ngưng thuốc. Sự ngưng một dược phẩm cũng quan trong như sự bắt đầu uống thuốc đó, nhất là khi uống lâu năm tháng như thuốc kháng sinh, thuốc an thần. Người cao tuổi có khi dùng hoài một vài thứ thuốc, nhất là quư vị sống trong nhà người già, viện dưỡng lăo được uống để khỏi ốn ào, đ̣i hỏi..

8- Xin bác sĩ giải thích cặn kẽ về thuốc và nếu có thể, nói cho một người sống chung để nhắc nhở.

9- Vứt bỏ hết thuốc cũ và quá hạn. Nhiều người tiếc rẻ, sợ phí của trời, giữ cả thùng thuốc cũ, rồi đem cho hoặc dùng khi thấy có triệu chứng bệnh từ năm xưa hoặc gửi về cho bà con ở quê hương.

10-Mồi lần đi khám bệnh, mang chai thuốc đă dùng để bác sĩ dễ nhận diện thuốc. Nhiều vị nói, “ấy kỳ trước bác sĩ cho tôi viên hạt dưa trắng, tốt lắm”, hay là “tôi đang uống thuốc nước mầu hồng”, th́ chả ai biết đó là thuốc ǵ.

11-.Theo lời chỉ dẫn của bác sĩ dược sĩ, đọc kỹ nhăn thuốc với cách dùng, giờ uống, uống lúc nào, bụng đói
hay no, mấy lần một ngày.
  Chẳng hạn thuốc uống bốn lần trong một ngày, có thể là uống vào những bữa ăn và trước khi đi ngủ; hoặc cũng có thể là uống mỗi 6 giờ đồng hồ, kể cả thức dậy ban đêm để uống.
Với thuốc nước, ta cần lắc chai cho thuốc ḥa đều với nhau trước khi uống.
Không tự ư tăng hay giảm phân lượng, v́ ít quá, không có công hiệu, nhiều quá sẽ gây hại.
Uống cho hết thời hạn bác sĩ dặn, chứ không phải thấy giảm bệnh là ngưng thuốc, để dành.
Không uống thuốc trong bóng tối, có thể nhầm loại thuốc.

12-. Giữ thuốc nơi an toàn, mát mẻ không ẩm thấp, xa tầm tay con trẻ; cất giữ trong chai, lọ từ nhà thuốc tây, để tránh nhầm thuốc.

13-Nếu có thể, nên mua thuốc ở một tiệm, như vậy dược sĩ sẽ có toàn bộ hồ sơ thuốc của ḿnh, có thể theo dơi, giải thích tác dụng các loại thuốc khác nhau cho ḿnh.
  Người dược sĩ không chỉ đóng vai tṛ cung cấp thuốc như trước đây. Họ có nhiệm vụ liên lạc với bác sĩ để tham khảo, lựa thuốc thích hợp cho bệnh nhân, hướng dẫn cách dùng thuốc, tác dụng tốt xấu của thuốc, nhắc nhở  bệnh nhân uống thuốc đều đặn, đúng phân lượng do bác sĩ biên và trong thời gian vừa qua có ǵ bất thường khi dùng thuốc hay không.

 Tŕnh bầy dược phẩm.
Nói đến thuốc, tưởng cũng nên t́m hiểu qua về cách thức tŕnh bầy tên thuốc.
Tại Hoa kỳ, trước năm 1938, hễ có tiền là ta có thể mua tự do bất kể thuốc ǵ, không cần toa bác sĩ, trừ thuốc có chất thuốc phiện.
Thế rồi, khi đó có một viện bào chế tung ra thị trường một dược phẩm chứa chất ḥa tan độc, làm thiệt mạng cả trăm người. Chính quyền bèn can thiệp. Và từ năm 1951 cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm (Food and Drug Administration- FDA ) của chính phủ liên bang Hoa Kỳ phân định rơ ràng thuốc cần toa bác sĩ và thuốc bán tự do. 
Một loại thuốc được bán với những tên khác nhau, nhưng căn bản dược liệu giống nhau.
  Khi viện bào chế khám phá ra một chất hóa học có giá trị chữa bệnh, họ bèn đặt cho nó một cái tên riêng (biệt dược), như đă tŕnh ṭa (Brand name ), độc quyền bán thuốc này ít nhất trong dăm năm.
  Sau thời gian đó các viện bào chế khác tự do chế hóa chất đó thành dược phẩm cùng có công dụng nhưng dưới tên chung (generic ), nhiều khi mang tên khoa học của hóa chất. Thuốc generic rẻ hơn từ 25 tới 80 % và công hiệu tương đương với biệt dược.
Nhưng giới tiêu thụ th́ vẫn thích biệt dược hơn, v́ họ cho là tốt hơn. Tên riêng của thuốc thường ngắn, gọn, dễ nhớ, ngoại h́nh tŕnh bầy đẹp lại được quảng cáo rộng răi, tốn kém rất nhiều nên bán với giá cao hơn. Do đó bảo hiểm cũng như thẻ khám bệnh người già, người kém lợi tức thường khuyến khích bác sĩ biên thuốc tên chung.

  Dươc phẩm được bào chế dưới nhiều h́nh thức khác nhau.
Thuốc có thể là để chích thịt, dưới da, mạch máu, khớp xương, có khi chích thẳng vào tim.
  Thuốc uống th́ hoặc là viên, nước.
Có thuốc để dưới lưỡi, xịt mũi, miệng tác dụng rất mau.
  Có thuốc dán trên da, hóa chất ngấm thẳng vào mạch máu, hay thuốc nhét hậu môn, cửa ḿnh.
Lại c̣n thuốc nhỏ lỗ tai, con mắt, thuốc mỡ, thuốc nước bôi ngoài da, thuốc bơm chậm vào cơ thể..
Mặc dù h́nh thức khác nhau nhưng chúng có cùng công hiệu và có những tiện lợi tùy theo loại thuốc và bệnh trạng.
Nhiều khi uống viên thuốc vào, nó chặn ở họng hoặc v́ ḥa tan, nó làm sót đau thực quản nơi ngực, ta có thể dùng mẹo như sau: trước khi uống thuốc, làm trơn cuống họng với một ngụm nước,nuốt thuốc với một miệng đầy nước rồi sau đó uống chừng 1/2 ly nước cho thuốc trôi xuống bao tử. Nên đứng hoặc ngồi để uống thuốc và giữ vị thế này trong vài phút trước khi nằm để tránh trường hợp thuốc dội ngược lên miệng.

Kết luận
 Sir Wiiliams Osler, người thầy thuốc kiêm giáo sư Y khoa nổi danh của Gia Nă Đại, có nhận xét : “Sự muốn dùng dược phẩm có lẽ là một đặc trưng lớn nó phân biệt con người với loài vật ”.         
Nhưng, để sự sử dụng này được công hiệu như ư muốn và tránh được tác dụng  không tốt, cần có sự hợp tác chân t́nh giữa bệnh nhân với bác sĩ, dược sĩ và sự hỗ trợ của gia đ́nh người bệnh. 
Mong vậy thay!!

Bác sĩ Nguyễn Ư Đức
Texas-Hoa Kỳ