|
REQUIEM pour Vũ Nguyễn Hồi Thủ (67, Keio) Tôi nhớ nhất Vũ Thư
Thanh lúc anh cầm một cây gậy dă cầu
ở tư thế tự vệ tại tầng
một cư xá Komaba thuở đó. C̣n thằng
Karim, người Pakistan, th́ mặc x́ líp đứng
trước mặt anh. Tôi không nhớ anh đă
chửi ǵ nó, nó định đánh anh, và v́ anh
là một người có tật (anh vẫn tự
nhận anh là thằng què), anh đă vớ ngay
được ở đâu đó một cây
gậy yakyu để dơ lên tự vệ. V́
vậy Karim không dám đánh Thanh mới quay sang
đánh Sang, nhưng v́ không đánh lại nên
chạy đi kêu gọi các sinh viên Pakistan khác và
bảo rằng người Việt Nam đánh
hội đồng và mang cả chầy yakyu ra
đánh... Ai ở Nhật giai đoạn năm
67-68 chắc đều c̣n nhớ chuyện xung
đột giữa sinh viên Việt Nam và sinh viên
Pakistan này. Nghe nói đám sinh viên Pakistan c̣n lôi kéo
được cả một bộ phận người
Nam Dương v́ cùng đạo Hồi với
nhau. C̣n phía Việt Nam th́ các anh em ở Chiba cũng
kéo lên hổ trợ. Chuyện xung đột này
có thể nói là bắt đầu từ Vũ Thư
Thanh, tuy không hề là lỗi của anh vậy. Lúc tôi vừa học xong khoá tiếng Nhật ở Osaka lên th́ Thanh được bầu vào chân trách nhiệm tờ Quê Hương, báo sinh viên Việt Nam ở Tokyo. Chính Thanh đă lôi kéo tôi vào tờ báo, Thanh dịch từ tiếng Anh và tiếng Nhật, tôi th́ đôi khi bao sân, về truyện, thơ, kịch và cũng có thể nói từ đó đă đưa đến chuyện tôi cho dịch và in được tập thơ đầu tay của ḿnh trên đất Nhật. Phải nói đó là công của Thanh, người đồng thời đă giữ kín được bút hiệu của tôi cho đến ngày tôi rời bỏ xứ này. Sau đó tuy xa nhau nhưng tôi vẫn biết tin Thanh, có vợ con và sống bằng nghề dịch. Đầu những năm 90 tôi
bắt đầu quay trở lại Nhật v́
chuyện làm ăn. Lần nào cũng ghé thăm
Thanh. Những lần cuối cùng tôi c̣n đến
ngủ lại nhà Thanh rất nhiều đêm.
Lần nào cũng căi nhau cho đến gần sáng.
Dĩ nhiên chúng tôi không đồng ư với nhau
trên rất nhiều điểm, nhưng sau này nghĩ
lại tôi thấy Thanh có nhiều nhận xét
rất độc đáo và xác đáng về con
người cũng như về lịch sử.
Dạo ấy phe CNXH đang trong thời kỳ tan
ră, tôi cũng như nhiều người hay
lẫn lộn mơ ước cùng hiện
thực, mới nghĩ rằng chẳng mấy
chốc rồi sẽ có thay đổi trong hướng
dân chủ và tự do cho quê hương. Riêng Thanh,
anh không hề có cái ảo tưởng đó, anh
tiên đoán rằng cái chính quyền chuyên chính
kia sẽ vẫn c̣n sống lâu ở Việt Nam
với lư lẽ rằng dân Việt Nam chỉ là
một đống cát rời, chỉ cần
một lực lượng có tổ chức là
trấn áp được một cách dễ dàng,
và khi trấn áp được quá dễ dàng th́
không bao giờ họ phải nhượng bộ. Nói
đến ư thức về tinh thần dân tộc
anh nhắc chuyện dân ḿnh cách đây chẳng
bao lâu c̣n kéo nhau đi xem quân tây đánh quân ta
khi quân Pháp công thành của Hoàng Diệu. Dạo ấy tôi hay qua lại
Việt Nam và cũng muốn kết hợp làm
một cái ǵ đó không phải chỉ có
lợi cho bản thân ḿnh. Tôi hay gợi ư bảo
anh về Việt Nam chơi với tôi, lại
gợi ư anh dịch từ tiếng Nhật sang
tiếng Việt một cái ǵ đó. Cả hai
việc anh đều nằng nặc chối
từ, viện cớ bảo rằng đó là những điều
vô bổ. Tôi nhớ anh bảo ở Việt Nam
nếu một cá nhân không có chỗ dựa,
hoặc chỗ dựa không chắc th́ không
thể làm được ǵ. Sau này tôi thấy hoàn
toàn đúng, chỉ có cái bây giờ người
ta không gọi là chỗ dựa mà gọi là ô dù.
C̣n việc dịch th́ anh bảo hiện giờ
anh đang làm, nhưng để sinh nhai, bao
giờ không c̣n cần phải lo chuyện sinh nhai
nữa th́ anh sẽ làm chuyện ấy. Vào
thời điểm này anh sống một cuộc
đời tĩnh tại, nếp thường,
đơn điệu, ăn, ngủ, dịch,
ngồi trước một cái Home cinema Sony vĩ
đại, cho nên anh mập bủng và bụng to. Thế rồi vài năm sau tôi bỗng nghe tin anh đă về Việt Nam làm việc, lần cuối cùng tôi về Việt Nam cách đây gần 10 năm, lúc ở đảo Cát Bà tôi nghe bà chủ khách sạn bảo có một ông tên Thịnh từng học ở Nhật và hiện đang làm việc với người Nhật ở trên đảo trong việc nuôi ngọc trai, hay đi tàu ra đây... Lúc đến Băi Cháy t́m gặp anh, tôi mới biết người đó chính là anh, và anh cũng khoe có một cái ca-nô hay dùng để đi ra đảo, trông anh khoẻ và yêu đời hơn, tuy phải làm, việc nhiều v́ đợt đó trai chất nhiều. Lúc chia tay, và tôi không ngờ đó
lại là lần cuối cùng tôi gặp anh, anh c̣n
bắt tôi để lại cho anh cái ba lô
bằng da mềm mua ở Mexicô. Không có ǵ để
kỷ niệm tôi đành phải đổi cho
anh để lấy cái ba lô bằng skai mầu da
cam mà không biết bây giờ nó ở đâu. Cách đây khoảng 3-4 năm ǵ
đó anh có nhờ người gửi đến
tôi một thư trong đó anh nhờ xem tôi có
thể giúp anh bán ngọc trai mà anh có thể mua
được với giá rẻ không. Cái thư
ấy th́ bây giờ tôi vẫn c̣n giữ đây.
Cái thư được đánh máy kèm theo danh
mục vài món hàng ngọc trai ở dạng
thuần. Tiếc là tôi không làm được ǵ
để giúp anh mà cũng không biết làm
thế nào hoặc lười nên không trả
lời trực tiếp cho anh. Bây giờ th́ anh không c̣n phải lo chuyện sinh nhai nữa rồi. Không biết việc chôn ở Bát Tràng có chắc phải là ư nguyện của anh không, một người bạn vốn hay có những ư tưởng rất gàn dở, nhưng độc đáo của tôi. Chúng ta, càng ngày càng già như một lẽ tự nhiên, đến đoạn cuối đường đời, ở cái tuổi gần hoa giáp này, càng mất nhiều người thân, bè bạn, càng cảm thấy nhiều cô độc, tôi càng thấm thía và bây giờ mới cảm thấy biết bao cái niềm cô độc và nỗi lạnh lùng của anh vào những ngày cuối đời. Tôi viết mấy ḍng này như một khúc nhạc tưởng niệm cho chút t́nh bạn của chúng ta. Tưởng niệm cho những giấc mơ chung của chúng ta, của thế hệ chúng ta, rồi cả những giấc mơ riêng lẻ, âm thầm trong từng góc nhỏ và sâu thẳm của tâm hồn chúng ta nữa. Chúng ta đă cúi đầu khuất phục trước thời gian, v́ cái khoảnh khắc đời của chúng ta quá ngắn ngủi, phù du. Lần cuối anh bảo tôi
với một vẻ mặt rất thành khẩn,
hầu như đây là lần đầu tiên tôi
thấy anh nói với khẩu khí của một người
điềm đạm, không có vẻ muốn căi
lư: ‘Thôi th́ ít nhất là bây giờ Việt Nam
cũng có hoà b́nh, c̣n những thứ khác mà chúng
ta mơ ước cho quê hương th́ không
những chúng ta không thấy được mà
ngay cả con cháu của chúng ta cũng đă
chắc ǵ thấy được !. B́nh thường
th́ tôi sẽ căi lại anh, bởi v́ đó không
phải là lư luận, lại cũng không phải là thứ
t́nh cảm mà một người lạc quan có
thể chấp nhận được, vả lại con
cái của chính chúng ta th́ chúng cần ǵ!, nhưng
bỗng có một sự chán nản và mệt
mỏi đến cùng cực chợt vây phủ
lấy tôi, tôi giật ḿnh bởi v́ vừa nghĩ
ra một điều : hoá ra chúng tôi mấy
chục năm nay gặp nhau cuối cùng rồi cũng
không nói với nhau được chuyện ǵ khác
hơn ngoài những thứ lẩm cẩm về
quê hương, đất nước đó để
rồi lại cứ như đi vào ngơ cụt. Nguyễn
Hồi Thủ, Viết sau ngày đi thăm mộ T.T.Hiệp với Nguyễn Đức Truyến, Paris 11.04 |