|
Nhân quyển Nước Nhật Bản 30 năm duy tân của Ông Đào Trinh Nhất mà nghĩ về nước Việt Nam trong 30 năm gần đây. Nguyễn Hồi Thủ (*) Vừa
mới xong mấy ngày Tết Tây, mắt nhắm
mắt mở đọc « meo » th́ gặp
ngay thư anh Trần Thanh Việt mời lên
mạng Exryu xem một quyển sách rồi lại
c̣n nhờ tôi viết cho vài hàng cảm tưởng
sau khi đọc quyển sách ấy, tưởng là sách ǵ
đó tôi vội trả lời, hứa
sẽ viết
vài hàng cho
xong chuyện. Báo
hại hôm nay lại phải lọ mọ vào xem là
quyển sách ǵ, th́ ra một quyển sách khá cũ,
viết đă cách đây 70 năm, đầy
những danh từ cũng đă cũ đôi khi tôi
phải tra từ điển để rơ nghĩa
chúng là ǵ (như kiểu Tinh Châu, Hồng Mao…). Ông
Đào Trinh Nhất vốn là một cái tên
rất quen thuộc đối với tôi. Năm
1980, sau gần 15 năm ở nước ngoài
trở lại Việt Nam, lúc quay về Pháp năm
1981 tôi có viết một tập hồi kư (nhan
đề Trên đường về nhớ đầy), cho
đăng báo sau đó tập hợp lại in thành
sách. Trong quyển sách ấy ở ngay trang 1 tôi có
dẫn một đoạn văn của ông Đào
Trinh Nhất để mở đầu cho
quyển sách của tôi. Ông Đào Trinh Nhất (ĐTN),
ngoài tập truyện Liêu Trai ông dịch c̣n dang
dở, không ngờ ông c̣n lắm đầu sách
đến như vậy, ông c̣n viết về
nhiều đề tài mà lại viết sâu
sắc hơn một nhà báo b́nh thường
rất nhiều. Khi viết ông c̣n cho ta thấy
đầu óc thông thái của ông qua các sách Tây Tàu
mà ông tham khảo. Thế mà đa số tác
phẩm của ông bây giờ chẳng c̣n ai
biết đến, ngoài tập truyện dịch
Liêu trai chí dị, không nơi nào tái bản
những quyển khác mặc dù gần đây
ở Việt Nam các nhà xuất bản nhà nước
và địa phương vẫn xào lại
rất nhiều tác phẩm cũ, ngay cả các sách
bị gọi là « thời ngụy ». Điều
ngạc nhiên nữa là không hiểu bằng cách nào
gia đ́nh anh Việt c̣n giữ lại được
quyển sách xưa như vậy (có đúng là
ấn bản năm 1936 không và của nhà
xuất bản nào ?), cứ nhớ lần
về lại Sàig̣n năm 1980, tôi đă rơi nước
mắt khi nh́n sách vở
cũ mới,
tốt xấu,
tây tầu ta, không
biết bao nhiêu đă bị đem đi thiêu
sống,
số c̣n lại th́ bị đem ra bán kí lô
để
gói đồ, bán
hàng hoặc… xé ra làm giấy đi cầu, tưởng
chừng ngoài những tập sách chính trị Mác
Lê Mao … và ít quyển từ điển th́
chẳng c̣n sách nào có quyền tồn tại
được. Tôi
không muốn đi sâu vào chi tiết quyển sách,
không có ư làm một bài điểm sách, nhất
là cũng vừa chập choạng chưa đọc
được kỹ lắm, chỉ muốn nói lên
vài cảm tưởng, đưa ra một cái nh́n
của ḿnh đối với quyển sách. Dĩ
nhiên đó là cái nh́n của riêng tôi, với thân
phận và bối cảnh của cuộc đời
tôi, để qua đó, đưa ra vài suy nghĩ
giản đơn, mong rằng chúng không làm rác
tai người đọc bài này. Tôi
muốn nói ngay một điều để tư
nữa khỏi quên khi sắp đi vào câu
chuyện mông lung, nói đúng hơn là tôi xin
nhắc lại một số điều có lẽ
ai cũng biết : dưới thời Pháp
thuộc, một thời mà (các nhà sử học
« cách mạng » hay nhắc lại) tên nước
chúng ta không có trên bản đồ, nhưng
ngạc nhiên thay, ta vẫn thấy có nhiều sách
cổ động ḷng yêu nước, tuyên
truyền, hô hào canh tân, đổi mới, đ̣i
cái này cái nọ, thậm chí xúi dục mọi người
làm cách mạng mà lại được chính
quyền thực dân cho phép in ra. Thường thường các sách
bị cấm thời đó cũng được
nêu rơ, thậm chí trong số những sách bị
thực dân kiểm duyệt, chỗ nào bị
đục bỏ, mấy chữ, bao nhiêu ḍng,
mấy trang đều được ghi lại rành
rành trên sách khi in ra. Ngoài ra không ít tư nhân,
hoặc kẻ có tiền, cũng có thể xin ra báo,
nhà xuất bản, những đảng phái
chống thực dân, trốt kưt, đệ tam …
đều đă ra được báo của ḿnh.
C̣n nói đến việc in sách th́ lại càng
dễ dàng hơn, điều mà những nhà văn
nghèo cỡ Tản Đà, Vũ Trọng Phụng
đều có thể làm. Những
việc ấy ngày nay ở nước Việt Nam
th́ ra sao ? Không nói ǵ đến các vấn
đề cao xa, chỉ nói đến chuyện công
khai viết về vấn đề đa nguyên,
đa đảng, nhân quyền…đă là
những chuyện không một phương
tiện chuyển tải nào dám làm dù báo chí, sách
vở thậm chí lời nói chỗ đông người.
Chỉ cần một bài báo đụng chạm
đến lănh đạo một tư (như
kiểu nhà báo Kim Hạnh) hoặc bài dịch
một tài liệu về định nghĩa
thế nào là dân chủ (như Vũ Chí Quang) là
cũng có thể đưa con người đến
chỗ tù tội. Trong cái thị trường sách
vốn đă nghèo mà lại toàn những sách vô
bổ, thậm chí có hại đang được
in ra bừa băi hiện nay, loại sách
nào, những quyển ǵ bị các ban tư tưởng,
các lănh đạo văn hóa cấm, kiểm
duyệt bỏ th́ cũng chẳng ai được
biết. Sách dịch th́ phải đến 99% là
loại best seller, trinh thám, chuyện t́nh và
những thứ rẻ tiền khác cứ
miễn là chúng không đụng đến
vấn đề chính trị, lịch sử, nhân
văn, trong đó sách dịch của Tàu càng ngày
càng chiếm một số lượng khổng
lồ như chưa bao giờ, dĩ nhiên v́ người
ta yên tâm bởi chúng đă được
cấp giấy bảo đảm của chính
quyền TQ. Người
ta chỉ biết là có những quyển sách tuy
được phép xuất bản, nhưng
vừa mới in ra đă vội bị thu hồi
(như kiểu Chuyện
kể năm hai ngh́n chẳng hạn của Bùi
Ngọc Tấn), mà thật ra cũng chỉ là
những quyển sách nói lên vài sự thật nào
đó mà thôi. Ngoài ra, tuy các tác giả đă luôn
luôn phải tự kiểm duyệt khi viết,
thế mà vẫn c̣n không biết bao nhiêu
quyển có vấn đề bị đục
bỏ chỗ này chỗ nọ, nhưng điều
xảo quyệt đáng nói ở đây là ngoài
người viết ra th́ độc giả
sẽ không thể nào đoán biết được
phần nào, đoạn nào, trang nào, chữ nào
bị kiểm duyệt, và v́ sao chúng bị
kiểm duyệt, v́ người viết phải
tự làm cho chúng mất dấu tích đi (Có
lẽ để cho mọi người tưởng
rằng chuyện kiểm duyệt không hề có
trong chế độ hiện nay ư ?). Than ôi !
Những vấn đề tabu cứ bàng bạc
khắp nơi không ai nhận diện được
rơ ràng, cũng giống như những tội danh
vậy (kiểu để
lộ bí mật nhà nước, lợi dụng cách
mạng, bôi bác lănh đạo…), trong một
đất nước mà tất cả phương
tiện thông tin, tuyên truyền, tất cả các
cơ quan ngôn luận, báo chí, rađiô, truyền
h́nh, Internet, cũng như các nhà xuất bản
đều nằm trong tay một nhà nước
độc tài, một đảng chính trị tŕ
trệ, thoái hóa, đui mù và độc tôn, đang
t́m cách giăng lưới, bủa vây đầu
năo, tâm hồn của 80 triệu người, công
an hóa cả lĩnh vực tư tưởng,
tri thức, tinh thần, không muốn cho ai nghĩ
được cái ǵ mà họ cho rằng có
thể phương hại hoặc làm lung lay cái
ghế ngồi của họ. Họ có làm
được chuyện họ muốn đó hay
không, trong chừng mực nào và đến bao
giờ th́ tôi không biết được, nhưng
tôi thương cho dân tộc tôi đang bị rơi
vào cái cảnh như vậy, tưởng
chừng c̣n tuyệt vọng hơn cả thời
thực dân mà lại mang tiếng là đang được
độc lập, tự do. Nghĩ
đến ông ĐTN và quyển sách của ông, tôi
ngậm ngùi cho rằng cuộc đời ông
ĐTN cũng là một cuộc đời tương
đối ngắn ngủi (nếu đem so
với tuổi thọ và tuổi tại chức
của các lănh đạo ta thời nay), thế mà
quyển sách của ông được viết
đă 70 năm rồi, cái 70 tuổi « cổ
lai hi » là cả một quăng thời gian
một đời người thật đáng
kể, tôi tự hỏi nếu ngày hôm nay ông
ĐTN c̣n sống (Ở bên Nhật h́nh như cũng
có thể t́m được những người
cao niên như vậy) th́ ông có c̣n tiếp
tục viết về cái gương, cái kiểu
mẫu, cái môđen Nhật bản này nữa không ?
Tôi sợ rằng không, bởi v́ Nhật Bản đă đi quá xa, dù có muốn « đón đầu » (Chữ này rất hay được dùng ở báo chí bên nhà hiện nay có ư muốn nói rằng tuy ta đi sau nhưng ta sẽ đến trước các nước khác, bởi v́ ta biết đi tắt, ta đón đầu và họ sẽ giật ḿnh ngạc nhiên đến chết được khi thấy ta đứng trước mặt họ, đi phía trước họ ! Như kiểu Chân trời 90 vào năm 75) chắc cũng không biết họ ở chỗ nào để mà đón. Đă quá xa đi rồi cái thời Ta đứng ngang hàng lịch sử với Nhật bản, cũng cùng bế môn tỏa cảng, đánh giết giáo sĩ như họ. Ông ĐTN có nhắc lại sự kiện tàu chiến Perry của Mỹ bắn vào cửa biển Phố Hạ của Nhật năm 1853 và năm 1858 nghĩa là chỉ có 5 năm sau tàu Pháp bắn vào cửa biển rồi chiếm Đà nẵng. Về sự kiện này ông c̣n viết thêm : «… đoàn tàu Mỹ vào cửa biến Phố-hạ, làm cho Nhựt-bổn tỉnh-ngộ tự-tân ; năm 1858, đoàn tàu Pháp tới cửa Đà-nẳng, giúp cho nước Nam ta trở nên lănh-thổ bảo-hộ của Pháp-quốc. Chớ chi thuở đó vua quan ḿnh giỏi, dân-tộc ḿnh khôn, th́ có lẽ nước Nam đă nhờ Pháp-quốc có ḷng tốt chạy sang đánh thức mà được tỉnh-ngộ tự-tân như Nhựt-bổn kia rồi ». (xem Chương 2, Một đoàn tầu Mỹ). Dĩ nhiên ông phải viết như vậy để tránh né lưỡi kéo kiểm duyệt chứ chẳng bao giờ lại nghĩ rằng Pháp quốc “có ḷng tốt chạy sang đánh thức …», nhưng đồng thời cũng để nói khéo rằng « nếu vua quan ḿnh mà tồi, dân tộc ḿnh ngu » th́ nước Nam không bao giờ tỉnh ngộ mà tự tân được, và vẫn cứ tiếp tục là một nước đói nghèo, yếu đuối để trở thành con mồi ngon cho bất cứ một thế lực nào muốn đến bắt làm nô lệ, cho dù h́nh thức nô lệ bây giờ không c̣n như ngày xưa nữa. Ta
lại tự hỏi lại, nếu ông không
viết về Nhật bản nữa th́ ông
sẽ viết về nước nào ? Nh́n
thấp hơn một tư cho cập nhật, ta có
thể nghĩ rằng ông sẽ viết về
Đại Hàn, Đài Loan, Singapo, những nước
cũng đă không may vướng
vào ṿng đô hộ của đế
quốc Tây
phương và
Đông phương sau
đó như ḿnh, nhưng
bây giờ họ đă trở thành con rồng con
cọp và có thể làm gương cho ta lắm
chứ? Tôi
cũng không chắc lắm, bởi v́ các nước
này cũng lại đă đi quá nhanh trong lúc ta
đang bị chiến tranh (có giọng điệu
của một số người vẫn cho
rằng các nước này đă được hưởng
lợi về tinh thần cũng như vật
chất đến từ cuộc đấu tranh
giải phóng của dân tộc Việt Nam, nếu
nói thế th́ phải thấy rằng Việt Nam
cũng là nước được hưởng
cái lợi đó đến từ cuộc
giải phóng của Trung Quốc ở biên
giới phía bắc năm 1949 chứ), họ
chỉ cần khoảng thời gian xấp xỉ
30 năm để xây dựng một nền công
nghiệp, một chế độ và chính
quyền tương đối dân chủ, trong
sạch, một dân trí với tŕnh độ giáo
dục lành mạnh và đạo đức
tốt đẹp. Và nếu nói về GDP, về
chỉ số tin cậy và chỉ số trong
sạch của các lănh đạo th́ các nước
này lại c̣n ở quá xa so với Việt Nam
rồi. Tôi
nghĩ ông chỉ c̣n có cách là viết về
những nước ở gần ta hơn nữa,
gần cả về mặt địa lư lẫn
phát triển, đó là và Philíppin, Malaysia, Thái Lan
chẳng hạn (Cứ xem trên Erct bài Giáo sư
Trần Văn Thọ nói về kinh tế và GDP
của mấy nước này so với Việt Nam
hiện nay, một nước th́ gấp 2
lần, nước gấp 3 và gấp
4 lần th́ chẳng phải là họ vẫn c̣n
gần gũi với Việt Nam nhất ư ?
) Thế nhưng nếu viết về các nước
này th́ viết cái ǵ đây, họ nào có
những thứ đặc biệt như tinh
thần vơ sĩ đạo của Nhật,
lại không phải là Thần quốc… th́
họ có được ǵ đáng để cho
ta học, để ĐTN nghiên cứu và
viết ? Thậm chí có nhà lănh đạo
Việt Nam cách đây gần 30 năm đă
bảo rằng Thái Lan chỉ là một ổ
điếm, không bao giờ ta đi theo con
đường của họ. (Người
đó giờ đây đă mồ yên mả đẹp,
không biết ở bên kia thế giới có bao
giờ tự hỏi rằng hiện giờ ta
đi trên con đường nào, và so sánh về
mặt « ổ điếm » th́ ta khác
được Thái Lan là bao nhiêu, thậm chí không
biết ông có biết rằng hầu hết điếm
ở Phnôm Pênh, Campuchia đều là con gái
Việt Nam không ? Một anh bạn exryu tôi
gặp lại năm 87 trong một buổi tối
đi chơi Tokyo đă chỉ cho tôi những người
con gái Phi mà người Nhật gọi là « Nihon
yuki » ra vẻ rất thương tâm, anh có
biết đâu rằng ngay lúc đó nhà nước
Việt Nam cũng đă gửi
không biết bao nhân công Việt Nam đi lao động
ở các nước XHCN rồi, và hiện nay
số lượng nước có người
Việt Nam đi làm công và đi « lấy
chồng » th́ không thể nào kể xiết.
Than ôi, đấy không phải là một cách
đi làm nô lệ ư ?).
Theo ư tôi chắc chắn nếu ông ĐTN
muốn t́m cái hay cái đẹp của những nước
này tất sẽ phải nói đến vấn
đề dân trí và dân chủ. Mà h́nh như ông
cũng đă có đề cập đến
vấn đề này trong quyển sách về
Nhật Bản của ông trong Chương
IV, Mở cuộc duy tân, Chương V, Công phu giáo
hóa khi ông nhắc về các ông Gia
Đằng Cao Minh, người làm cho số dân
có quyền tuyển cử được tăng
lên nhiều, Bản viên Thoái Trợ, người
vận động dân quyền và tạo lập
ra chánh đảng, Phúc
Trạch Dụ Cát, Thắng Lân Thái Lan, về
mặt cách tân văn hóa… Trong
lịch sử cận đại, nhất là
những năm gần đây, chúng ta thường
thấy khi xẩy ra những biến cố chính
trị ở Phi, Mă Lai và Thái Lan, khi có bất
đồng ư kiến về một vấn đề
ǵ đó nhất là chính trị, những người
dân thường cũng có thể một lúc
tự phát kéo xuống đường biểu t́nh
đến cả mấy trăm ngh́n người
mà không cần nhà nước tổ chức,
lại không sợ sự đàn áp của nhà nước
(mặc dù vẫn có sự đàn áp của
cảnh sát, công an), đó là một điều mà
người dân Việt Nam không biết đến
thế kỷ nào mới có thể làm được.
Có lẽ c̣n có nhiều tính chất tốt đẹp
khác nơi mấy dân tộc đó mà ông ĐTN c̣n
có thể viết được như thức
thời, mềm dẻo, trọng lễ độ,
đạo đức, tôn giáo, thậm chí c̣n
giữ được cả vua như Thái Lan
(vẫn từng can thiệp khi có vấn đề
tranh chấp giữa dân chúng và nhà nước)
vv…Nhưng nếu sống vào thời buổi này
chỉ cần ông ĐTN nói đến mỗi
một điều đầu tiên tức ư
thức dân chủ của người dân là sách
của ông đă không thể nào thoát khỏi
sự kiểm duyệt của Ban tư tưởng
rồi, c̣n nói ǵ đến các chuyện khác
nữa. Cho nên để kết luận, có lẽ
cuối cùng chỉ c̣n lại một nước
mà ông ĐTN có thể viết mà may ra thoát
được lưỡi kéo kiểm duyệt thôi,
đó là Trung Quốc. Quyển sách của ông lúc
ấy sẽ là « Nước
Trung Quốc sau 30 năm duy tân ». Nói 30 năm
ở đây là tôi bỏ cái cuộc Đại cách
mạng văn hóa ra mà chỉ đếm từ năm
chết của Mao chủ tịch là năm 1976. Tôi
cũng hy vọng ở Việt Nam có được
một chủ tịch nào đó mà năm chết
có thể làm cột mốc để đếm
cho cái 30 năm duy tân của nước nhà như
vậy. Tuy
vấn đề cũng là vật chất, kinh
tế, nhưng không chắc chỉ là chiến lược
mở cửa như thế nào, kỹ thuật
sắp xếp, tổ chức, điều động
ra làm sao, không chỉ là khoa học, kỹ
thuật và công nghiệp, thậm chí cũng không
phải là phát triển kinh tế, làm giầu, nó
c̣n hơn thế nữa, nó cần một văn
hóa của sự khoan dung, chấp nhận, nếu
không nói đến một văn hóa t́nh thương,
để cho mọi tâm hồn đều
được b́nh an, yên ổn, không ngạo
mạn, tham tàn, ch́ chiết, hận thù lẫn
nhau ; làm sao để cho con người
Việt Nam được sống cho ra con người,
con người tự do, dám suy nghĩ, dám nói, dám
làm trong mọi lĩnh vực, ngửng đầu
ngẩng mặt, không c̣n phải sợ sệt,
nịnh bợ, đút lót, bán buôn những cái thiêng
liêng nhất của con người. Tại
sao 30 năm ??? Tại sao ông ĐTN cũng
lấy thời gian là 30 năm ? Th́ ra đại
khái đó là khoảng thời gian từ lúc người
Nhật bị bắt buộc mở cửa và
bắt đầu cuộc canh tân cho đến lúc
đánh bại Trung Quốc rồi Hải quân Nga. Tính
từ 1975 của Việt Nam đến nay cũng
đă là hơn 30 năm rồi !!! Có
ai c̣n nhớ không ? Chúng ta ngày ấy, cũng
như biết bao người, vẫn c̣n trẻ
lắm, những giấc mơ của những người
trẻ tuổi nào mà không đẹp ? Dù sao Ḥa
B́nh năm 1975 cũng mang đầy hẹn ước.
(Không biết người Exryu trẻ nhất năm
nay đă bao nhiêu tuổi ? Những người
già đă ra đi th́ càng ngày càng thêm nhiều !) Người
Tây phương cho rằng một thế hệ có
chiều dài cuộc đời của chúa Jêsu (33
năm). Nhưng b́nh thường, quăng thời
gian khớp với khoảng cách chia cắt
từng thứ bậc trong quan hệ cha con, nghĩa
là một thế hệ, được ước
lượng là 30 năm. Ở những nơi mà
cuộc đời ngắn ngủi hơn, tuổi
thọ trung b́nh thấp hơn, trai gái tảo hôn
hơn, có lẽ một thế hệ c̣n ngắn
hơn nhiều ! Nhưng chúng ta cứ lấy
con số phổ cập 30 năm này làm chuẩn. Nhiều nước
kém phát triển như Israel, Đại Hàn, Trung Quốc
và bao nhiêu nước
khác nữa đều thay đổi ghê gớm
sau 30 năm gần đây. Nó làm cho ta có cảm tưởng
là thời gian đi qua nhanh như vũ băo.(Nói như
ông ĐTN khi than về việc duy tân của nước
Nhật là sao mau chóng
lạ lùng !). Nhưng cái kích thước
thời gian đó lại hầu như dừng
lại ở Việt Nam. Mốc thời gian
của các nhà lănh đạo chúng ta c̣n nằm
ở năm Ất Dậu, năm có nạn đói
làm chết bao nhiêu người, mà họ hay
nhắc lại để lấy làm hănh diện,
để răn đe, để thấy thời
gian của họ là loại thời gian gần như
phi thời gian. (Chả trách người ta bảo có
nhiều không – thời gian (espace-temps), và
thời gian th́ có nhiều kích thước :
thời gian sôi động, vũ băo, bồn
chồn của con người phố thị,
của những siêu đô thị (megalopolis) và
thời gian ngưng đọng, dằng dặc, vo
ve tiếng muỗi, ruồi của ông nông dân
trong buổi trưa hè hay đêm thanh vắng. Có
những lúc mà một phút có thể kéo dài
cả một đời người như
thể thời gian có thể giăn nở, có
thể ngưng lại để cho con người
có thể…ngược, xuôi thời gian. Nói
thế xem ra cũng có vẻ lư giải được,
nhưng thật ra đó chỉ là thời gian
của các ông nhà
văn đi t́m thời gian đă đánh mất
mà thôi. Không phải các nhà lănh đạo
của chúng ta không muốn đem bản thân,
đem cuộc đời ḿnh ra để « đo »
thời gian như người ta nói đâu. Ai
trong chúng ta cũng muốn làm việc đó,
bởi v́ hầu như đều đă mơ
hồ biết chắc rằng ḿnh chỉ có
mỗi một cuộc đời mà thôi. Nhưng
họ bất chấp thời gian bởi v́ họ
chỉ sống trong thời gian của họ, cái
thời gian trong đó họ cảm thấy
thoải mái, giải thích được sự
chậm lụt, tŕ trệ của họ. Họ
chủ ư quên đi rằng dù ta có loay hoay không làm
được việc ǵ th́ khách quan thời gian
vẫn trôi đi cho tất cả. Sống trong
thời đại toàn cầu (đă hơn 5
thế kỷ rồi c̣n ǵ !) ta không thể không
nh́n ra chung quanh, chạy đua với các nước
bên cạnh, trong khu vực, trên thế giới,
bắt buộc phải xem xét vận tốc
của mọi người để thích ứng.
Những thế kỷ trước con người
đă luôn luôn tin vào một tương lai,
hoặc lặp lại như một ṿng tuần
hoàn hoặc tiến bước
rồi lại quay về cái thế quân b́nh cũ.
Nhưng việc này không c̣n nữa từ khi loài
người có khả năng tự tiêu diệt ḿnh
bằng vũ khí hạt nhân, bằng khoa-kỹ.
Thế kỷ XX, như Edgar Morin nói, đă khám phá
ra sự đánh mất tương lai, nghĩa là
tính không thể đoán trước được
tương lai của ḿnh sẽ ra sao nữa). (Ông
ĐTN c̣n nhấn mạnh là nước Nhật :
« Âu hóa mặc ḷng,
nhưng Nhật bản vẫn là đông phương
như ngàn năm trước » Chương
IX, Văn hóa Đông Tây. Đối với các
lănh đạo Việt Nam th́ việc này thật
chẳng có ǵ là khó làm cả, cho nên gần
đây ta vẫn có câu ca dao mới : Bốn
ngh́n năm ta vẫn là ta Ba
mươi năm sau nữa, khi chúng ta, hầu
hết những người đang đọc
những ḍng này chắc không c̣n tại thế
nữa, nếu may mắn có một trí thức
Việt Nam ưu thời mẫn thế nào đó
lại muốn viết một quyển sách cổ
động người ḿnh theo gương người
Lào hoặc Capuchia để trở thành một nước
văn minh, phát triển, thoát khỏi ṿng nô
lệ mới th́ điều đó đối
với tôi cũng chẳng lấy ǵ làm lạ (Tôi
nói điều này hoàn toàn không có ư khinh thị
những dân tộc trên, nhất là đối
với một nước với đền đài
như Angkor, chỉ muốn đề cập đến
kích thước thời gian mà thôi). Tiếng
Việt khi nói về một hiện tượng
chưa xác định, một tư duy không rơ ràng
người ta thường dùng chữ mông lung, dĩ nhiên đây là một từ đến
từ tiếng Hán, nhưng mông lung trong tiếng Hán
lại có thể viết hai cách và mang hai ư nghĩa
thật khác nhau, nếu hai chữ đều
được viết với bộ nhật
th́ chỉ cái mờ ảo của buổi sáng
sớm, hứa hẹn cho một b́nh minh, một
ngày mới mẻ ; nhưng nếu viết
với bộ nguyệt
th́ lại chỉ sự mờ ảo của
buổi tối khi màn đêm sắp phủ
xuống, e rằng sự mờ ảo của chúng
ḿnh khi nh́n vào tương lai nước Việt
với những lănh đạo bất tài, tham nhũng
th́ chỉ là cái mông lung của đêm tối mà
lại không biết trăng có lên không.
Nguyễn Hồi Thủ, Paris, 10-01-2006. ®
Phải có sự đồng ư của dịch
giả (tác giả) cũng như ghi rơ
nguồn "www.erct.com" |