MÙA XUÂN ĐI HENRO
Nguyễn Anh Tuấn
Bây
giờ Nhật Bản đang vào mùa mưa (梅
雨
入り).
Mùa mưa ở Nhật Bản thường th́ khoảng đầu tháng 6 đến trung tuần
tháng 7.
Trong
những ngày tháng c̣n đi học
ở Nhật, tôi không thích mùa mưa lắm,
v́ có những ngày nó cũng nóng như mùa hạ, lại thêm cái nhột nhạt,
rít chịt, ẩm của nước, khi đội mưa mà đi, làm con người khó chịu
trong cái oi ả, mệt nhọc, mà tiếng Nhật gọi là "natsubate" (夏ばて).
Nhưng mùa mưa cũng có cái thú vị của nó, chữ tsuyu (梅
雨)
tự nó cũng đă phản ảnh h́nh ảnh của trái ume (梅,
plum, trái mơ). Mùa mưa đến cũng là mùa ume chín rộ. Nên tsuyu có
chữ ume (梅,
mai). Mùa mưa mà được hẹn ḥ cũng là điều mơ mộng của những kẻ vừa
mới lớn, được đi trong mưa với người yêu dưới một cây dù mỏng manh.
Nên trong những lá thơ t́nh, người ta thường vẽ cặp t́nh nhân dưới
cây dù. Đă qua rồi cái thuở
đôi mươi.

Nguồn :
四国おへんろ.net
Mùa
xuân năm nay, tôi có dịp tiếp tục đi "henro" (遍路,
biến lộ, đi hành hương, pilgrimage), sau một thời gian gián đoạn.
Thường th́ người ta "henro" vào mùa
xuân hoặc mùa thu v́ khí
trời mát mẻ.
Kỳ
nầy tôi đi từ chùa số 13, DaiNichiJi (大日寺)
đến chùa số 19, TatsuEJi (立江寺).
Theo protocol, luật lệ của đi henro, tôi phải trở lại chùa số 12,
ShôSanJi (焼山寺),
rồi từ trước cổng chùa ShôSanJi, tôi mới bắt đầu đi đến chùa
DaiNichiJi.
Trước
khi tiếp tục bài viết, tôi có vài thông tin xin được
chia sẻ, để
các anh chị nào có ư định đi "henro" trong tương lai, có
thông tin để chuẩn bị, hiểu thêm về việc đi henro và lịch sử của
nó.
Năm
804, Kobo Daishi (弘法大師,
Hoằng Pháp Đại Sư
) được gởi qua Trung Hoa học về Phật Giáo. Trong thời gian ở Trung
Hoa, ngài đă học hỏi và nghiên cứu Phật Giáo Trung Hoa,
Phật Giáo Ấn Độ cùng tiếng
Phạn. Năm 806, ngài trở về Nhật Bản và truyền bá đạo Phật. Ngài đi
ṿng đảo Shikoku (四国,
Tứ Quốc) và lập ra 88 ngôi chùa. Cho nên khi đi "henro" ở Shikoku
(tiếng Nhật gọi là “Shikoku Hachiju Hakkasho,
四国八十八箇所”,
Tứ
Quốc Bát Thập Bát Cá Sở)
là
để tưởng nhớ đến 88 ngôi chùa mà Kobo Daishi đă lập nên.
Tên
của ngài là Kukai ̣(空海,
Không Hải). Dân gian gọi ngài là Kobo Daishi (弘法大師,
Hoằng Pháp Đại Sư). Tên trong Phật giới gọi ngài là Henjō-Kongō (遍照金剛,
Biến Chiếu Kim Cang). Ngài lập ra một hệ phái trong Phật Giáo Nhật
Bản gọi là Shingon-shū (真言宗,
Chân Ngôn Tông). Ngài mất năm 835 tại Koya-san (高野山),
Wakayama-ken (和歌山県).
Koya-san cũng là bản bộ của phái Shingon Buddhism (真言宗,
Shingon-shū, Chân Ngôn Tông). Năm 2004, Koya-san đă trở thành
Unesco World Heritage.
Kobo Daishi cũng là người sáng lập
ra hệ thống chữ "Kana" mà người ta dùng ngày nay. Đó là
"Hiragana", "Katakana".
1) Ai cũng có thể đi "henro" cả,
không cần phải là người đạo Phật. Người ta đi henro là đi lại đoạn
đường mà Kobo Daishi (弘法大師, Hoằng
Pháp Đại Sư ) đă đi qua đây, để t́m hiểu, để thử thách... Có nhiều
người ở Âu Châu và Hoa Kỳ, Canada, đă tham dự vào cuộc hành tŕnh
nầy dài 1,200 cây số ṿng quanh đảo Shikoku, Tứ Quốc (
四国)、miền
nam nước Nhật. Người đi hành hương được gọi là ohenro san. Hàng
ngàn người đi hành hương có thể họ có hàng ngàn lư do khác nhau
tại sao họ đi henro. Không nhất thiết phải là lư do tôn giáo.
Có
nhiều anh chị hỏi tôi "Tại
sao anh đi ohenro?" Riêng cá nhân tôi, tôi đi henro v́ muốn ḿnh
bỏ bớt cái tham sân si của ḿnh. Lúc trước, tôi thường hay giận
dỗi và giận lẫy khi vợ ḿnh, con ḿnh, hay bạn bè chung quanh
không nghe những lời ḿnh nói. Buồn để bụng. Trên bước đường đi
henro, đi qua những ruộng đồng, leo qua núi, xuống những ngọn đồi
trong lúc chiều về. Nh́n những cành anh đào phớt phơ trong gió
xuân, hay đi trong mùa thu, nh́n những trái kaki (trái hồng) vàng
rực dưới bầu trời trong xanh. Ḷng cảm thấy trầm xuống, thật thoải
mái, và ḷng tự nhũ ḿnh có cơ duyên đi qua những chặng đường mà
Kobo Daishi đă đi qua hơn 12 thế kỷ trước. Quả đó là một cái duyên.
Tiếng Nhật gọi là En Ga Aru (縁がある).
Th́ tại sao ḿnh không thay đổi ḿnh, khi ḿnh có cái duyên mà
Kobo Daishi ban cho ḿnh. Và từ đó, tôi cảm thấy ḿnh BỚT DẦN cái
tham sân si đó. Tôi cũng tự nhũ "let it go" khi cuộc đối thoại đi
vào ngỏ cùng. Và cũng biết rằng, "ḿnh không thay đổi được người
khác, nhưng ḿnh có thể thay đổi được ḿnh". Cuộc đời trở nên vui
hơn và có ư nghĩa hơn.
Nói
tóm lại, đi "henro" không có nghĩa trong tương lai sẽ được về "miền
cực lạc ". Đi "henro" là để khám phá ra "ḿnh là ai", "ḿnh muốn
ǵ" trong những ngày c̣n lại, "ḿnh có những khuyết điểm ǵ để sửa
chữa, để làm con người ḿnh tốt hơn"
Hằng
năm có đến hàng trăm ngàn người đi "henro". Họ đi bằng xe bus,
bằng xe hơi, bằng xe đạp, đi bộ. Người ta độ chừng chỉ có khoảng
10% đi bộ. Tùy
theo điều kiện sức khỏe và phương tiện,
người
ta
có
thể đi hết 88 ngôi chùa, hay chỉ đi 20 ngôi chùa, hay chỉ 5 ngôi
chùa. Không có một luật lệ hay giới hạn nào. Ngoài ra, đi "henro"
cũng là dịp ḿnh hiểu thêm về người Nhật, về phong tục, văn hóa ở
nhà quê, tiếng thổ địa. Có thêm bạn mới trên bước đường thiên lư.
Có dịp thưởng thức các thức ăn của địa phương ; để thấy văn hóa
Nhật Bản thật phong phú. Người Nhật thật dễ thương
và hiếu khách (omotenashi),
và cảnh thiên nhiên ở đồng quê Nhật Bản rất trong lành.
.jpg)
Đi
"Henro" bằng xe đạp
(những người đi xe đạp thường th́
không có mang Kongozue (gậy) v́ không có chỗ )
2) Đẻ̉ chuả̉n bị cho chuyến đi, chúng
ta phải có tối thiểu vài
vật dụng sau đây:
Trang
phục hành hương, Pilgrim Attire.
a.
Áo trắng mặc bên ngoài, white vest,
hakui
白衣
(bạch y) (xem
h́nh dưới đây).
Biểu tượng cho sự thuần khiết,
純粋さ
(Junsui-sa )
.jpg)
đi
bộ (và
người bạn mới, đi "henro" bằng xe đạp (xe đạp dựng phía sau)
b.
Nón lá, sedge hat, sugegasa,
菅笠
(gian lạp), để che nắng mưa trên đường bước hành hương. (see
the picture)
c.
Cây gậy, staff, kongozue,
金剛ずえ
(see the picture). Người ta tin rằng,
kongozue, cây gậy nầy tượng trưng cho Kobo Daishi (Hoằng Pháp Đại
Sư), là bạn đồng hành với ḿnh trong cuộc hành tŕnh nầy (
同行二人、Dogyo
ni-nin ), "You are not alone". Ngoài ra, "kongozue" dùng để, theo
đó ḿnh nương đi lên đồi núi, hay xuống dốc, và để xua đuổi rắn
rít, chứ không giết chúng.
d.
Nôkyôchô
納経帳
(Nạp Kinh Trướng), Pilgrimagebook,
tạm dịch là cuốn album để đóng dấu các ngôi chùa sau khi ḿnh
lễ
Phật và Kobo Daishị.
Trong
cuốn album "
Nôkyôchô
" có 176 trang cho 88 ngôi chùa. Nhà chùa sẽ viết tên chùa và đóng
mộc vào trang giấy kế bên h́nh chùa. Nét chữ rất đẹp như rồng bay,
phượng múa, rất trang nhă. Ḿnh sẽ phải trả 300 yen như là tiền
cúng dường (hay thù lao cho người vẽ và đóng mộc)
.jpg)
e.
Osame Fuda,
納札,
Nameslips : dùng để viết tên, địa chỉ, ngày tháng và những
đièều ước nguyện, và bỏ vào "nameslip box" đặt trước bệ thờ ớ
chánh điện Phật và ở điện thờ Kobo Daishi.
.jpg)
f. Đèn cầy và nhan : để lễ
Phật và Kobo Daishi.
Trước
khi vào chùa, người ta phải purify ḿnh bằng cách rửa tay và súc
miệng ( rinse your mouth) ở bể nước đặt sau cổng vào chùa. Nơi rửa
tay và purify nầy được gọi là temizuya (手水舎).
.jpg)
Temizuya
(手水舎)
.jpg)
Temizuya
(手水舎)

cầu
nguyện
Sau
khi lễ Phật và Kobo Daishi xong, người Nhật đọc kinh "HANNYA SHIN-GYO",
般若心経,
Bát Nhă Tâm Kinh. Tôi thắc mắc và có dịp hỏi Tùng Sơn Nguyễn Quang
Dục-san (Exryu 70, Texas), là tại sao người ta không đọc kinh nào
khác khi đi henro, mà chỉ đọc kinh "Bát Nhă", th́ được Tùng Sơn
Nguyễn Quang Dục-san trả lời như sau :
“Bộ kinh này gồm có 600 quyển được
ngài Huyền Trang cô đọng lại c̣n 262 chữ được xem như tư tưởng
triết học cao siêu, kết tinh trí tuệ Đông Phương vượt thời gian và
không gian, giúp cho vô số người chứng ngộ về thế giới vô thường.
Lư
do tại sao các chùa chọn bộ kinh này để đọc cho O Henro san, có
nhiều lư do, thứ nhất Kobo Đaishi người sáng lập
Shingon-shū (真言宗,
Chân Ngôn Tông
) cũng đă viết quyển "Bát Nhă Tâm Kinh Bí Kiện" (Ch́a khóa bí mật
của Bát Nhă Tâm Kinh"), thêm vào đó bộ kinh vừa mang tính chất
ngắn, gọn, tiện mang theo trên đường đi hành hương, ngoài đặc tính
linh thiêng như đă tŕnh bày ở trên.”
Theo tự điển Thiều Chửu, Bát nhă (般若)
dịch âm chữ Phạn, nghĩa là trí tuệ, trí tuệ thanh tịnh. Như vậy,
người ta đọc kinh "Bát Nhă " khi đi "henro" là dùng trí tuệ để đưa
con người từ chỗ tối ra chỗ sáng, đi đến bờ Giác.
Sau
khi tôi xong công chuyện của ḿnh và sau khi chu du vài nơi ở vùng
Nihonkai,
日本海,
Japan Sea (tôi sẽ viết một bài về chuyến đi nầy trong một dịp khác).
Một sáng mùa xuân của tháng tư, tôi đáp chuyến kaisoku "Marine
Liner" từ Okayama (岡山)
đi Tokushima (徳島).
Gọi là kaisoku (快速
), nhưng thật ra nó giống như
express train (Tokkyu hay kyuko) v́ người ta phải mua vé mới có
chỗ ngồi chứ không phải loại kaisoku thường mà ḿnh thường đi
"Chuo sen" từ Tokyo station về Yotsuya hay Shinjuku. "Marine
Liner" có hai tầng, tầng trên là "green car".
.jpg)
Marine Liner chạy từ Okayama (岡山)
đến Takamatsu (高松)
Nếu
ḿnh có JR Pass th́ không phải trả tiền đi loại kaisoku nầy v́ nó
nằm trong "ṿng đai" của JR Pass, nhưng không được ngồi ở "green
car". Sau khi xe điện đi qua Kojima
児島,
nơi sản xuất quần jean nổi tiếng nhất Nhật Bản, thuộc thành phố
Kurashiki (nơi mà exryu chúng ta đă đi thăm viếng trong chuyến đi
mùa thu năm 2012), xe điện sẽ chạy trên Seto Ohashi Bridge (瀬戸大橋),
nối liền Kurashiki/Okayama (đảo Honshu) và Takamatsu/Kagawa (đảo
Shikoku). Ngày xưa, người ta phải đi ferry từ Kurashiki qua
Takamatsu. Nhưng từ năm 1988, Seto ohashi đă hoàn thành và giúp
cho việc di chuyển giữa Honshu và Shikoku trở nên nhanh chóng và
tiện lợi hơn.
Khi
xe điện đến Takamatsu (高松),
tôi phải đổi qua chuyến kyuko, "Uzushio" (うずしお),
đi Tokushima.
.jpg)
Kyuko "Uzushio" (
うずしお)
chạy từ Takamatsu (高松
) đến Tokushima (徳島
)
Xe điện đến nhà ga Tokushima khoảng
2 giờ chiều.
Tôi
check-in hotel và đi ṿng ṿng nhà ga để ḍ đường đi nước bước cho
chuyến đi ngày mai đến chùa số 12, ShôSanJi (焼山寺).
Sáng hôm sau, lúc 7:05, tôi có mặt tại trạm xe bus tên là Kamiyama
Basu (神山バス)
để đi ShôSanJi. Xe bus đi về phía núi chập chùng, mà tiếng Nhật
gọi là "yama no oku". Dọc đường xe ngừng lại hai, ba trạm chính để
học tṛ lên xuống. Xe đi qua những con đường nhỏ dọc theo sườn núi,
bên dưới là thung lũng có những ḍng sông nhỏ chảy qua. Đôi khi xe
nhà nhỏ bé phải ép sát vào sườn núi để xe bus đi qua. Người ta lái
xe và nhường nhau thật hay. Một h́nh ảnh thật đẹp trong một xă hội
theo một tinh thần hài ḥa (harmony) theo đúng ư nghĩa của nó.
Hơn
một tiếng sau (nói đúng ra là 1 tiếng 12 phút), xe bus đến trạm
cuối. Tôi hỏi bác tài đường đi đến chùa ShôSanJi. Bác cho biết tôi
phải đi dọc theo con đường làng bên tay phải dẩn lên núi. Từ đây
lên đó đi bộ khoảng 2 tiếng. Con đường làng nầy có trải nhựa cho
xe lên xuống. Trên đường không một bóng người. Đường đi ngày càng
lên núi cao, chân bắt đầu mơi. Thỉnh thoảng có một vài xe chạy vụt
qua, tôi muốn ra dấu “hickhike”. Nhưng đây là Nhật Bản, chứ đâu
phải là ở Mỹ đâu, nên tiếp tục “đường lên núi rừng”. Đi một chập
sau, có một bảng có dấu hiệu nghĩ chân, có tên gọi là "O Henro Eki",
và có rest room bên kia đường. Bên trong "O Henro Eki" có vài bàn
nhỏ để "o henro san" ngồi nghĩ chân. Trong khi ngồi nghĩ chân, tôi
có dịp chuyện tṛ với một thanh niên khoảng trên dưới 30 đến từ
tỉnh Okayama, đi henro bằng xe đạp. Người thanh niên có việc mới
và lấy cơ hội để
đi henro trước khi đi làm, đi henro để tạ ơn và cầu nguyện gặp
được người lư tưởng. Cậu để xe đạp ở "O Henro Eki", đi bộ lên núi,
và tôi có bạn đồng hành. Từ đây lên núi c̣n khoảng 1 tiếng nữa.
.jpg)
.jpg)
Cậu
thanh niên đi henro bằng xe đạp đến từ Okayama
Hoa
anh đào nở rộ hai bên đường thật đẹp. Trời thật xanh và vài đám
mây trắng lũng lờ trong cái tĩnh mịch của núi rừng.
.jpg)
Người
tôi thật b́nh an. Một b́nh an có thật trong ḷng và một b́nh an có
thật trong cảnh vật quanh đây.Tôi đến trước cửa chùa ShôSanJi (焼山寺).
Vào bên trong lễ Phật và chia tay người bạn đồng hành. Tôi đi
xuống núi, đi đến chùa số 13, DaiNichiJi (大日寺).
Đường đi xuống nhanh hơn. Nhưng mất khoảng 2 tiếng mới xuống chân
núi. Nơi đây, tôi gặp một người Mỹ. Gặp một người Mỹ nơi chốn sơn
lâm nầy là một chuyện hiếm. Điều làm tôi kinh ngạc là anh lập một
quán cà phê nơi đây có tên là "Buddha Cafe", California Style
Food, với cô vợ người Nhật. Anh từng là một kỷ sư điện tử tại
Silicon Valley. Anh cũng ngạc nhiên khi biết tôi là một người Việt
Nam tỵ nạn Cộng Sản, sống và làm việc tại thung lũng hoa vàng, và
đang đi henro nơi đây. Anh đưa cho tôi một tấm business card. Và
tôi hy vọng lần tới tôi sẽ có dịp uống cà phê và tṛ chuyện với
anh nhiều hơn. Thật là một cái duyên thật hy hữu.
.jpg)
.jpg)
Trước
cổng chùa số 12, ShôSanJi,
焼山寺.
Có
lẽ là chùa đẹp nhất..
.jpg)
v́ có những hàng cây to trong khuôn
viên..
.jpg)
và
chùa rất cổ kính
Tôi
đến chùa DaiNichiJi khoảng 3- 4 giờ chiều.V́ ryokan tôi ở đêm nay
chỉ cách chùa DaiNichiJi khoảng 5 phút đi bộ nên tôi check in sớm.
Ông chủ nhà cẩn thận dặn ḍ tôi nhớ trở về ryokan đúng 6:00 giờ để
ăn cơm tối. Sau khi lễ Phật và Kobo Daishi và đóng mộc vào
nôkyôchô xong, tôi thả bộ dọc theo đường quê. Trời tháng 4 ở
Shikoku tương đối ấm, người dân quê đă bắt đầu cày đất, vài ba
ngày nữa, họ cho nước vào ruộng và họ sẽ trồng mạ. Nơi đây, người
ta cũng c̣n trồng cabbage và broccoli.
.jpg)
Tôi
trở về ryokan đúng giờ. Trong pḥng ăn có tất cả là 8 người. Tôi
được sắp ngồi chung bàn với một ông ở Osaka đến. C̣n 3 bàn kia là
họ đi có đôi với nhau : 4 người đàn bà và hai người đàn ông. Hai
cô ở Tokyo, hai cô ở Brazil qua, c̣n hai ông kia là ở Hokkaido.
Tất cả đều lái xe đi, trừ hai cô ở Brazil và tôi là đi bộ. Không
khí thật vui và cởi mở. Họ share với nhau những kinh nghiệm trên
bước đường đi henro. Ăn xong, ông chủ nhà chỉ dẫn chỗ tắm furo,
chỗ giặt đồ. Tôi ăn xong th́ đi giặt đồ v́ chỉ có đem theo hai bộ,
nếu mà không giặt tối nay, th́ ngày mai không ai dám lại gần. Sáng
hôm sau, mới 6:00 giờ sáng, ông chủ nhà đi gơ cửa từng pḥng : "Chôshoku
jikan desu yo" (朝食):
Tới giờ ăn sáng rồi. Cho chắc bụng, tôi làm tới những ba chén cơm
v́ hôm nay tôi phải đi bộ hơi nhiều : chùa 14, 15, 16 và 17.
Trở
về pḥng, packed đồ xong, tôi xuống trả tiền và cám ơn ông chủ nhà.
Tôi đến genkan lấy "Kongozue". Ông cười và nói "Itte Irasshai".
Tôi mĩm cười, cúi đầu chào ông và nói "Itte Kimasu".
Đi
một chập, tôi thấy hai cô người Brazillian đi trước tôi. Thế là
chúng tôi nhập bọn, đi đến chùa 14, 15, 16 và 17.
Hôm
nay ai cũng mệt lă. Sau chùa 17 là mạnh ai đi t́m ryokan của ḿnh,
v́ hai cô kia và tôi booked ryokan khác nhau. Ăn tối xong, tôi đi
ngũ sớm v́ ngày mai đi từ chùa 17 đến chùa 18 khá xa, gần 18 km.
Tôi
thức sớm để ăn sáng sớm v́ phải đi trên đoạn đường dài 18 cây số
để đến ryokan trước khi trời tối. Đường đi khá khó v́ phải leo núi,
có những đoạn phải theo nương theo dây mà đi v́ đường đi không có
chỗ để vịn, và dể bị trợt té. Không biết v́ đường đi khó hay v́
ḿnh "đă già hơn xưa", hay là cả hai lư do, tôi cảm thấy đuối sức.
.jpg)
Đi
hoài mà sao chưa thấy lên đến đỉnh hay ra người đường cái. Tôi hơi
lo. Không biết ḿnh có bị lạc hay không. Nhưng may quá, đi một
đoạn tôi nghe có tiếng xe chạy. Th́ ra ḿnh sắp sửa ra đường cái
rồi. Tôi thở phào. Ra đường cái xong, tôi đi được một đoạn nữa th́
đồng hồ đă chỉ 1 giờ trưa. Tôi tấp vào một công viên nhỏ xíu, chắc
là cho "o henro san", v́ chung quanh không có nhà cửa, dân gian
nào ở đây. Ở công viên nầy có một tượng nhỏ của "Jizo Bosatsu"(Địa
Tạng Bồ Tát). Người Nhật yêu mến ông gọi là "O Jizo Sama". O Jizo
Sama thường được đặt và thờ bên vệ đường để yểm trợ, ban phước
lành cho kẻ lữ hành và bảo vệ trẻ em. Tôi mở pack back ra, lấy cơm
và yakisoba c̣n left over tối qua. Ngồi nh́n hoa anh đào bay lả tả
theo gió để nhớ bài viết năm xưa của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, "Gởi
Hương Cho Gió ". Ngày hôm nay, ngồi nơi đây giữa chốn núi rừng ở
Shikoku mà thấy như ḿnh cũng "Gởi Hương Cho Gió ".
Ngôi
chùa 18, OnZanJi (恩山寺),
để lại trong tôi một ấn tượng thật gần gũi khi ông từ trong chùa
đến offer
chụp h́nh cho tôi và giải thích thêm cho tôi biết là ngày xưa
người ta không cho giới nữ vào chùa. Khi Kobo Daishi tu ở "Onzanji",
th́ mẹ của ông đến thăm. V́ là nữ giới, bà không được vào chùa.
Với ḷng hiếu thảo muốn mẹ được vào chùa, Kobo Daishi đă phải cầu
nguyện trong 17 ngày liên tục và ngài dùng phép hoán thông để nữ
giới được phép vào trong các chùa. Do đó mẹ của ngài đă được vào
chùa. Sau đó bà đi tu trong chùa Onzanji. Kế bên đền thờ Kobo
Daishi là một
ngôi am thờ mẹ của Kobo Daishi. Cũng nhờ sự cầu nguyện của Kobo
Daishi, từ đó các nữ giới được vào trong các chùa.
.jpg)
chùa
18, OnZanJi (恩山寺)
Khi
rời Onzanji, tôi xin phép được chụp h́nh ông, th́ ông mĩm cười trả
lời v́ ông không c̣n răng nữa, nên chụp h́nh có sao không? Tôi mến
cái chất phát, thành thật và hiếu khách của ông. Cũng như được
nghe ông thuật lại
câu chuyện hiếu thảo của Kobo Daishi.
.jpg)
"Ông Từ" ở chùa 18, OnZanJi
(恩山寺),
và tượng Kobo Daishi ở phía sau.
Ngày
mai tôi phải đi cho xong đoạn đường từ chùa 18 đến chùa 19 v́ phải
trở lại Tokyo trước khi JR Pass hết hạn.
Ở chùa số 19, Tatsueji (立江寺),
tôi có dịp gặp một số o henro san, họ là một group 7-8 người đến
từ Oita ken
(大分県
),
đảo Kyushu, một tỉnh nằm miền nam nước Nhật, dưới sự hướng dẩn của
một vị sư. Biết tôi là người ngoại quốc, họ tíu tít thăm hỏi và vị
sư cho tôi nhiều trái cây và thức uống để mang theo trên bước
đường henro. Tiếng Nhật gọi là "osettai". Họ cho nhiều đến nổi
tôi không c̣n chỗ để bỏ vào pack back nữa. Tôi phải chia cho các
"o henro san" khác.
.jpg)
Vị
sư đến từ Oita-ken (大分県
)
.jpg)
Đọc
kinh cầu nguyện
Có
dịp đi henro. Có dịp đi về miền quê. Có tiếp xúc với các tầng lớp
khác nhau của người miền quê, mới thấy ḿnh có phúc, có được những
ǵ đẹp nhất của t́nh người mà ta có được.
Và
cũng trong cái tận cùng của đi henro là ḿnh sẽ thay đổi được ḿnh,
ít nhất ở một level nào đó.
.jpg)
Dọc
theo đường đi "henro" : "Akiya" : nhà bỏ hoang bên đường
(Tokushima-ken)
.jpg)
"Đường lên núi rừng"
.jpg)
Ra đến "Con Đường Cái Quan"
.jpg)
Nghĩ
trưa bên đường

Dừng
chân đứng lại trời non nước
Cám
ơn trời, cám ơn Kobo Daishi, đă cho tôi
có được những
diễm phúc đó.
Thung
Lũng Hoa Vàng
Tháng
sáu, đầu hạ, mùa tốt nghiệp.
Nguyễn
Anh Tuấn