|
Tôi vẫn thường nghe nói nước ta có bốn vị tiên, người dân gọi là “Tứ
bất tử”. Đó là Thánh Tản Viên, Phù Đổng Thiên Vương, Công Chúa Liễu
và Chử Đồng Tử. Đền thờ của bốn vị tiên này được rất nhiều người đến
lễ bái. Khi nghe nói đền thờ Chử Đồng Tử ở tỉnh Hải Hưng, không xa
Hà nội lắm, chúng tôi nhất định làm một chuyến du hành.

Đền Chử Đồng Tử (*)
Buổi sáng Hà nội trời c̣n mù sương, chúng tôi ra xe lên đường đi
xem làng Bát Tràng, nơi thổ sản đồ gốm. Sau đó đi đến làng Đa Ḥa,
nơi có đền thờ Chử Đồng Tử.
Quay sang nói với Hà-An :
“Con biết không, thiên t́nh sử của Chử Đồng Tử và công chúa Tiên
Dung được đưa vào quốc sử. Ḿnh sẽ đến thăm di tích Đa Ḥa, để mẹ kể
con nghe chuyện t́nh ở băi Tự Nhiên.”
“Công chúa Tiên Dung, con vua Hùng Duệ Vương, rất xinh đẹp, nhu
ḿ. Các vương tôn, lạc tướng ai cũng muốn được kết hôn với nàng
nhưng công chúa chỉ muốn được đi du ngoạn, xem cảnh đẹp núi sông.
Một ngày đầu mùa hạ, công chúa xin vua cha cho dong thuyền trên sông
Cái, xuôi ra cửa biển. Khi thuyền đến một băi cát hoang vắng, trời
nóng oi ả, cát mịn, nước lóng lánh sau khóm lau sậy, Tiên Dung bỗng
muốn được dội ḿnh trên ḍng nước mát đó. Các tỳ nữ làm màn che cho
nàng tắm. Tiên Dung cởi hết áo, múc nước dội lên người thỏa thích.
Từ từ nước cuốn lớp cát bên khóm sậy trôi đi, để lộ ra thân h́nh một
người thanh niên ở trần trùng trục …
- Ô …
Tiên Dung bàng hoàng không nói nên lời
- Tôi là Chử Đồng Tử …
Người thanh niên ấp úng
Công chúa trấn tĩnh, dịu dàng hỏi :
- Sao chàng lại ở nơi này ?
Chàng trai chân thành kể chuyện đời ḿnh.
- Làng tôi ở bên bờ sông Cái. Mẹ mất sớm. Hai cha con sống một cuộc
đời cực kỳ kham khổ. Cả hai chỉ có một tấm khố che thân. Khi cha đi
ra ngoài th́ cha mặc khố, tôi làm việc nhà. Khi tôi mặc khố ra ngoài
th́ cha làm việc nhà. Đến khi cha sắp qua đời, ông dặn : “Hết đời
cha rồi, cha chỉ để lại cho con được một cái khố che thân. Con cố
giữ lấy mà mặc …” Tôi vâng lời nhận khố cho cha yên ḷng nhắm mắt,
nhưng tôi không thể nào để cha ra đi với không một mảnh khố che thân.
Tôi mặc tấm khố vào cho cha và đưa người về nơi an nghỉ cuối cùng.
Từ đó, để khỏi gặp dân làng, ngày ngày tôi phải đi ra sông từ sáng
sớm đến tối mới trở về nhà. Hôm nay tôi đang kiếm cá th́ thấy thuyền
rồng dong buồm đi tới. Không biết trốn vào đâu, bèn ẩn ḿnh trong
đám lau sậy
…
Nói đến đây, Chử Đồng Tử như sẵn sàng chạy trốn.
Công chúa nghe chuyện đời chàng, cảm động nói :
- Ta và chàng t́nh cờ gặp nhau hôm nay, âu cũng là duyên Trời sắp
đặt …
Nàng gọi tỳ nữ mang áo quần cho Chử Đồng Tử mặc, hai người làm lễ
kết hôn ngay trên thuyền, rồi quay về ra mắt vua cha.
Hùng Duệ Vương nghe công chúa đă tự ư kết hôn với một người nghèo
không có một mảnh khố che thân. Giận quá vua truyền lệnh không cho
gặp mặt.
Tiên Dung và Chử Đồng Tử đành trở về sông Cái, chặt tre cắt sậy, xây
một căn nhà nhỏ sống qua ngày. Tiên Dung truyền nghề chăn tằm dệt
lụa cho dân làng. Nhưng cuộc sống của dân nghèo gặp cảnh hạn hán lụt
lội, đau ốm luôn luôn. Một hôm Chử Đồng Tử từ biệt vợ, một ḿnh
quyết ra cửa biển, đi t́m Thần Phật hỏi xem có phép mầu nào đem lại
hạnh phúc cho mọi người. Đang lênh đênh trên biển cả, một cơn sóng
mạnh xô tới làm đắm thuyền. Khi tỉnh dậy, chàng thấy một vị tiên ông
râu tóc bạc phơ giao cho một chiếc gậy trúc và một chiếc nón lá, dạy
chàng một câu thần chú rồi biến mất.
Chử Đồng Tử trở về làng, cùng Tiên Dung dắt nhau lên một mô đất cao,
cắm gậy trúc, đội nón lá rồi dựa vào nhau, ngủ thiếp lúc nào không
hay. Nửa đêm thức dậy, thấy ḿnh nằm êm ấm trên giường, trong lâu
đài có đủ đồ đạc không thiếu thứ ǵ. Từ đó hai người nhờ gậy trúc và
nón lá đi khắp nơi cứu giúp dân làng, cải tử hoàn sinh cho rất nhiều
người.
Tin đồn về với vua cha là Công Chúa và Chử Đồng Tử muốn lập nên
bờ cơi riêng để chống lại vua. Vua bèn cử các lạc tướng đến để trị
tội. Chử Đồng Tử và Tiên Dung bảo họ rằng :
- Chúng tôi biết, làm con mà không nghe lời cha là bất hiếu, làm dân
mà không nghe vua là bất trung. Chúng tôi không muốn gây ra cảnh dân
t́nh chết chóc …
-
Nói xong, Chử Đồng Tử và Tiên Dung nhổ gậy th́ lâu đài của cải biến
mất. Quân lính trở về triều đ́nh, báo là không thấy giang sơn nào cả.
Ngày hôm sau Chử Đồng Tử cắm gậy xuống, lâu đài lại dựng lên. Vua
Hùng Duệ Vương sai quân đi lại mấy lần vẫn không dẹp được. Lần sau
cùng, quân lính tiến đánh lâu đài vào nửa đêm, lúc đó trời bỗng mưa
to. Vợ chồng công chúa từ từ bay lên trời. Sáng sớm ngày hôm sau dân
chúng đến nơi th́ không c̣n thấy lâu đài ở đâu chỉ thấy một đầm nước
mênh mông. Người ta gọi đó là đầm Nhất Dạ.
Khi nghe tin con gái đă về trời, nhà vua buồn bă, muốn đến tận nơi
xem xét t́nh h́nh. Khi đến đầm Nhất Dạ, vua c̣n đang ngẩn ngơ hối
hận th́ thấy trên trời có một con hạc trắng bay xuống ngậm một dải
lụa hồng. Nhà vua với tay lấy dải lụa hồng, th́ ra đó là bức thư của
công chúa. Công chúa xin cha tha tội v́ không c̣n trên đời để hầu hạ
vua trong lúc tuổi già. Vua cảm động trước mối t́nh của Chử Đồng
Tử-Tiên Dung nên cho lập đền thờ ngay trên băi Tự Nhiên nơi hai
người đă gặp nhau với duyên kỳ ngộ.”
Năm 31 tuổi, niên hiệu Thành Thái thứ tư (1892), Chu Mạnh Trinh
đậu Tam giáp Tiến sĩ, được bổ về làm Tri phủ tỉnh Hà Nam. Sau đó ông
được thăng chức Án sát các tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh và Thái
Nguyên. Chu Mạnh Trinh vốn là người yêu thơ, đánh đàn hay, chơi cờ
giỏi lại thích ngao du phong cảnh, thấy nhân gian ngưỡng mộ truyền
thuyết Chử Đồng Tử, chính ông cũng muốn phát huy giá trị đạo đức nên
đă đứng ra vận động nhân tài vật lực các nơi về khởi dựng Đền Đa Ḥa.
Đền Đa Ḥa nằm ngay trên sông Hồng cách Hà nội độ 20 km về phía
Nam. Du khách có thể đến thăm bằng đường thủy hay đường bộ.
Từ Bát Tràng đến đền thờ, xe băng qua những khu đất ruộng xanh rờn.
Hai bên là những căn nhà nhỏ với những cây chuối cây hoa, giản dị êm
đềm. Qua những đoạn đường đất gồ ghề, mẹ con măi ngắm cảnh nên cũng
không thấy khó nhọc mấy. Chiếc xe đổ ngay ở khu ngoài ngay trước nhà
Bia. Đứng ở nhà Bia nh́n xuống sông Cái, trước mặt là băi Tự Nhiên.
Nhà Bia nằm uy nghi trên một khoảng đất rộng. Gặp ngày nước lên,
khách du thuyền có thể thấy nhà Bia ngay từ dưới bến. Ngày chúng tôi
đến thăm gặp mùa nước cạn nên con sông thấy gần ḿnh hơn là cái cảnh
bao la trong các truyện của Tự Lực Văn Đoàn. Chúng tôi nh́n xuống
một vùng lau sậy. Nắng xuyên qua các cành tre, lá nhỏ, không biết có
phải là tre lá ngà không, gió thổi hiu hiu tựa hồ như cảnh ngày xưa
đang diễn biến trước mặt ḿnh. Xa xa thấy như có đoàn rồng từ từ
tiến đến. Sông nước này, cảnh trí này, chuyện t́nh nào cũng đẹp,
cũng nên thơ. Trong thâm tâm dân ḿnh, ai cũng khao khát một t́nh
yêu tuyệt hảo. Một tấm ḷng hiếu thảo tột bực của Chử Đồng Tử. Một
đức hạnh kiên trinh của công chúa Tiên Dung. Càng nghĩ đến cuộc t́nh
của Chử Đồng Tử và Tiên Dung càng thấy người xưa đă đi trước thời
gian từ bao nhiêu thế kỷ. Người xưa đă khắc khoải, hoài vọng một đời
sống công bằng. Tiên Dung, nàng công chúa sống trong nhung lụa vật
chất không thiếu thốn ǵ, bằng ḷng đi cưới một Chử Đồng Tử, chàng
trai nghèo xác xơ, nghèo như không ai nghèo hơn được nữa. Họ vẫn
sống hạnh phúc êm đềm. Họ vẫn có ḷng chia giúp nhân gian.
Chúng tôi vừa đi vừa thích thú, nghĩ về Nữu Ước lúc này chắc là đang
gió tuyết liên miên, trong lúc ḿnh được mặc áo ngắn tay đi thong
dong. Con đường từ nhà Bia vào đền đầy bóng mát của hai hàng cây gạo.
Người Hà nội nói là mùa hoa gạo ở đền Đa Ḥa đẹp hơn đâu cả. Mỗi năm
vào cuối tháng ba âm lịch, đúng kỳ hội, dăy hoa gạo cổ thụ này nở
đầy hoa đỏ thắm, những chùm hoa lung linh như những chiếc lồng đèn
nhỏ.
Đi tiếp vào là Ngọ Môn, gồm có ba cửa. Cửa chính bằng gỗ lim, được
sơn son thếp vàng, chỉ mở vào ngày đại lễ, hai cửa hai bên vẫn mở
hàng ngày. Qua khỏi cửa bên, vào khu trong cũng giống như những đền
thờ khác. Người ta bảo rằng cụ Chu Mạnh Trinh vốn tinh tế, giàu
tưởng tượng nên đă cho xây đền gồm 18 nóc, các bờ nóc nằm đều đặn
như các khoang thuyền. Từ trên cao nh́n xuống sẽ thấy như một đoàn
thuyền đang dập d́u trên bến sông Hồng. Mười tám nóc bởi Tiên Dung
lúc đó 18 tuổi và vào đời vua Hùng Vương thứ 18. Hiện tại đền thờ đă
bị tàn phá nhiều nên tôi nói với Hà-An, con phải nhắm mắt lại, dùng
trí tưởng để thấy được như ư tiến sĩ họ Chu.
Bên trong là sân đại, nhà đại tế, ṭa Thiên Hương. Trên nóc ṭa
Thiên Hương có ba chữ sơn son thếp vàng “Giao Quang Các” (nơi ánh
sáng hội tụ). Ở trong ṭa Thiên Hương và nhà đại tế có rất nhiều câu
đối của các thi nhân, của Chu Mạnh Trinh và của nhiều tác giả vô
danh cảm ứng mối t́nh Tiên Dung Chử Đồng Tử.
Chúng tôi đi vào bên trong, hỏi chuyện các người lớn tuổi về di tích.
Khu vườn nhỏ, hoa trái xum xuê. Những cây chuối “kiểng”, có những
buồng chuối cả trăm quả nhỏ li ti, chỉ để làm kiểu như kiểu bon-sai
cổ thụ. Có những bụi hoa trang màu đỏ màu vàng rất đẹp. Nh́n phía
bên kia bàn thờ tôi thấy những cây cờ, viết chữ Xe Pháo mă … cao
bằng đầu người. Vừa buộc miệng hỏi là đă có ngay câu trả lời, đó là
cờ người …
- “Cờ người …”
Tôi chưa nói hết câu, ông cụ đă trả lời :
- “Hội đền có múa rồng, đấu vật, có đánh cờ người. Đến kỳ mở hội nhà
nào có con gái đẹp được có mặt trong bàn cờ người là vinh hạnh lắm.
Có khi chỉ được làm con tốt thôi cũng được, miễn là có chỗ đứng. Cô
nào được làm Tướng th́ thế nào cũng khao. Hội đền này khác với các
hội khác là có rước kiệu qua sông đến băi Tự Nhiên. Người ta nói,
ngày cụ Chu c̣n sống, những ngày lễ hội như thế lúc nào người ta
cũng thấy ông mặc áo lam đội mũ có lông chim trắng, ngồi trên khoang
thuyền nh́n thiên hạ vui chơi.
Chúng tôi từ giă các cụ ra về, trong ḷng vẫn c̣n muốn nghe
chuyện quá khứ, nghe truyền thuyết. Cái ǵ đă qua cũng có thể đẹp
hơn hiện tại, cái ǵ tưởng tượng cũng tràn đầy mộng mơ …
Trên đường trở lại nhà Bia, chúng tôi gặp một dăy các bà bán hương
đèn, kẹo cau, kẹo mè gói trong những bọc nylon nhỏ. Các bà già, da
nhăn nheo, lưng đă c̣m, ngồi dưới nắng mưa, chờ mời du khách. Lúc đi
vào đền chúng tôi bận rộn với những cây hoa gạo, những cây nhăn nên
không để ư đến họ. Mỗi thứ kẹo bánh hương đèn trên thúng của các bà
chỉ độ vài xu tiền Mỹ. Tôi không thấy cần mua ǵ nhưng “lỡ dại” đưa
năm chục ngàn đồng VN (độ 3,5 đô-la) cho một bà xem ra già nhất
trong đám và nhờ bà chia cho tất cả các bà khác. Chân chưa bước ra
khỏi khu bán hàng đă nghe các bà nhao nhao căi nhau. Tôi bối rối v́
sự tưởng-là-công-bằng nhưng làm người ta khó xử của ḿnh. Tiếng các
bà la oang oảng bên tai, tôi nhớ lời người em dâu dặn :
- “Chị phải cẩn thận. Ở đây cho cũng không phải để cho đâu …”
Hà-An nghe tiếng căi vả sau lưng, không hiểu ǵ hết ghé vào tai tôi
vừa hỏi nhỏ vừa có ư trách móc :
- “Me làm ǵ vậy ? Me mua đồ của một bà mà không mua cho mấy bà kia
hả ?”
- “Không phải đâu con, chắc chuyện ǵ riêng của họ.”
Tôi nghĩ, nói là ḿnh cho tiền để các bà chia nhau chắc là các bà
không chia đồng đều nên căi vả om ṣm … th́ Hà-An – sinh ra, lớn lên
ở xứ này – sẽ không thể nào hiểu được.
Tiếng các bà chỉ c̣n là dư âm. Trước mặt chúng tôi là hàng cây gạo
xanh mướt. Tôi nhủ thầm, chuyến sau tôi sẽ về Hà nội vào mùa hoa gạo.
Tôi sẽ lên lại đền Đa Ḥa xem ngày hội lễ, tôi sẽ đi Sapa xem hoa
gạo trong trời mù sương.
Hà nội
Tháng Giêng 2000
(*) H́nh của
catcara83 |
|